Một ổ dịch bạch hầu đang xảy ra tại Đắk Nông đang khiến Sở Y tế tỉnh này phải cách ly 355 người để hạn chế sự lây lan. Cho tới thời điểm này, ít nhất một ca tử vong đã được ghi nhận. Bệnh nhân là cháu Sùng Thị H. (SN 2011, ngụ cụm 2, thôn 6, xã Quảng Hòa) được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Nông trong tình trạng ho, đau họng, khó thở.
Bệnh nhân sau đó tiếp tục chuyển biến nặng và được chuyển đến Bệnh viện Nhiệt đới TP HCM. Đến sáng 20-6, cháu H. tử vong do bệnh bạch hầu ác tính biến chứng vào tim.
Mặc dù chiến dịch tiêm chủng mở rộng ở Việt Nam đã hạn chế bệnh bạch hầu xuống mức 0,14/100.000 dân, tuy nhiên, bệnh vẫn còn lưu hành và chưa bị xóa sổ hoàn toàn. Những đối tượng chưa được tiêm phòng hoặc không tiêm nhắc lại vắc-xin bạch hầu vẫn có thể bị nhiễm bệnh.
Dưới đây là những kiến thức về bệnh bạch hầu và tiêm chủng bạch hầu mà bạn cần biết:
Bạch hầu là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Nó thường ảnh hưởng đến màng nhầy của mũi và cổ họng, gây ra đau, sốt, sưng hạch và kiệt sức. Ngoài ra, bạch hầu cũng có thể biểu hiện trên da, ở các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục.
Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra.
Bạch hầu có thể được điều trị bằng thuốc. Nhưng trong giai đoạn tiến triển, bạch hầu có thể làm gây viêm ở tim, thận và hệ thần kinh của bạn. Ngay cả khi điều trị, bệnh bạch hầu cũng vẫn có thể gây tử vong, đặc biệt là ở trẻ em.
Bạch hầu thường khởi phát từ hai đến năm ngày sau khi một người bị nhiễm vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae. Các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm:
- Một màng dày, xám bao phủ cổ họng và amidan
- Đau họng và khàn giọng
- Sưng hạch cổ
- Khó thở hoặc thở nhanh
- Chảy nước mũi
- Sốt và ớn lạnh
- Khó chịu
Ở một số người, nhiễm vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae chỉ gây bệnh nhẹ, không hề có triệu chứng rõ ràng nào cả. Những người này được gọi là người mang bệnh bạch hầu. Họ có thể lây truyền bệnh cho người khác nhưng bản thân thì không bị bệnh.
Ngoài bạch hầu thông thường ảnh hưởng tới niêm mạc mũi họng, còn có một thể bạch hầu gọi là bạch hầu da. Bạch hầu da gây ra những vết đau, đỏ và sưng tương tự như các bệnh nhiễm trùng da do vi khuẩn khác. Dấu hiệu nhận dạng là vết loét bạch hầu da cũng được bao phủ bởi một màng màu xám.
Bạch hầu da thường xuất hiện ở vùng khí hậu nhiệt đới, đặc biệt là những nơi có điều kiện vệ sinh kém, dân cư đông đúc. Để chấn đoán bạch hầu, các bác sĩ phải thu thập mẫu bệnh phẩm trong niêm mạch họng hoặc da để xét nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Bạch hầu là do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Vi khuẩn thường nhân lên trên hoặc gần bề mặt của cổ họng. Bệnh bạch hầu thường lây lan qua:
- Những giọt bắn chứa mầm bệnh bay trong không khí: Khi một người bị nhiễm bệnh hắt hơi hoặc ho, họ sẽ sẽ tiết ra những giọt sương chứa vi khuẩn. Khi những người ở gần đó hít phải những giọt sương này, họ sẽ bị nhiễm vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae. Bạch hầu rất dễ lây lan theo con đường này, đặc biệt là những nơi đông đúc.
- Các vật dụng cá nhân hoặc gia đình: Mọi người thỉnh thoảng mắc bạch hầu do do sử dụng lại vật dụng của người nhiễm bệnh, uống nước từ li chưa rửa sạch của người nhiễm bệnh. Hoặc họ cũng có thể tiếp xúc gần với các vật phẩm khác mà dịch tiết chứa vi khuẩn có thể đọng lại như khăn giấy, khăn tay.
- Lây lan do tiếp xúc: Bệnh bạch hầu da có thể lây khi tiếp xúc với vết thương hở của người bị nhiễm bệnh.
Những người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu và chưa được điều trị có thể lây nhiễm cho những người chưa tiêm vắc-xin bạch hầu - ngay cả khi họ không có bất kỳ triệu chứng nào.
Những người có nguy cơ mắc bệnh bạch hầu cao bao gồm:
- Trẻ em và người lớn không được tiêm chủng từ nhỏ hoặc không được tiêm nhắc lại
- Người sống trong điều kiện đông đúc hoặc mất vệ sinh
- Bất cứ ai đi đến một khu vực có người nhiễm trùng bạch hầu
Bạch hầu là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng đòi hỏi phải được điều trị tích cực và kịp thời. Phương pháp điều trị bao gồm:
- Sử dụng kháng sinh: Thuốc kháng sinh, chẳng hạn như penicillin hoặc erythromycin, giúp tiêu diệt vi khuẩn trong cơ thể và làm sạch nhiễm trùng.
- Chất chống độc: Bác sĩ có thể cần dùng thêm thuốc chống độc để giải trừ độc tố mà vi khuẩn bạch hầu tiết ra trong cơ thể. Loại thuốc này thường được tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm vào bắp bệnh nhân.
Trẻ em hoặc người lớn khi nhiễm bạch cầu phải được cách ly điều trị, bởi đây là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây lan cao.
Nếu không được điều trị, bệnh bạch hầu có thể dẫn đến nhiều biến chứng:
- Vấn đề về hô hấp: Vi khuẩn gây bệnh bạch hầu có thể tạo ra độc tố. Độc tố này gây tổn thương mô ở vùng bị nhiễm trùng ngay lập tức - thường là mũi và cổ họng. Tại vị trí đó, nhiễm trùng tạo ra một màng cứng, màu xám bao gồm các tế bào chết, vi khuẩn và các chất khác. Màng này có thể cản trở hô hấp.
- Đau tim: Độc tố vi khuẩn bạch hầu có thể lây lan qua dòng máu của bạn và làm hỏng các mô khác trong cơ thể, chẳng hạn như cơ tim, gây ra các biến chứng như viêm cơ tim (viêm cơ tim). Tổn thương tim do viêm cơ tim có thể nhẹ hoặc nặng. Ở mức tồi tệ nhất, viêm cơ tim có thể dẫn đến suy tim sung huyết và đột tử.
- Tổn thương thần kinh: Độc tố cũng có thể gây tổn thương thần kinh. Mục tiêu thường thấy nhất là dây thần kinh cổ họng bị tổn thương sẽ gây khó nuốt. Dây thần kinh đến cánh tay và chân cũng có thể bị viêm, gây yếu cơ.
Nếu độc tố bạch hầu làm tổn thương và liệt các dây thần kinh giúp kiểm soát hơi thở, bệnh nhân cần được nối với máy thở để thở.
Nếu được điều trị, hầu hết những người mắc bệnh bạch hầu đều sống sót sau những biến chứng này, nhưng quá trình phục hồi thường chậm. Tỷ lệ tử vong của bệnh bạch cầu là từ 5% đến 10%. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em cao hơn người lớn.
Trước khi có thuốc kháng sinh, bạch hầu là một bệnh phổ biến ở trẻ nhỏ. Nhưng kể từ khi chúng ta có thể chữa trị nó bằng thuốc và phòng ngừa bằng vắc-xin, bạch hầu đã dần bị đẩy lùi và gần như biến mất ở các nước phát triển.
Vắc-xin bạch hầu thường được kết hợp với vắc-xin uốn ván và ho gà (ho gà) thành vắc-xin ba trong một. Phiên bản mới nhất của vắc-xin này được gọi là vắc-xin DTaP cho trẻ em và vắc-xin Tdap cho thanh thiếu niên và người lớn.
Trẻ sơ sinh thường được tiêm chủng vắc-xin ho gà, bạch hầu, uốn ván vào thời điểm 2 tháng, 4 tháng và 6 tháng sau khi sinh. Các mũi nhắc lại tiếp theo được tiêm vào tháng 15-18 và năm 4-6 tuổi.
Vắc-xin bạch hầu có hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh bạch hầu. Nhưng có thể có một số tác dụng phụ. Một số trẻ có thể bị sốt nhẹ, quấy khóc, buồn ngủ hoặc đau tại chỗ tiêm sau khi tiêm DTaP. Hiếm khi, vắc-xin DTaP gây ra các biến chứng nghiêm trọng nhưng có thể điều trị ở trẻ, chẳng hạn như phản ứng dị ứng (nổi mề đay hoặc phát ban trong vòng vài phút sau khi tiêm).
Sau loạt tiêm chủng ban đầu ở thời thơ ấu, bạn cần tiêm nhắc lại vắc-xin bạch hầu để giúp duy trì khả năng miễn dịch. Đó là bởi vì khả năng miễn dịch đối với bệnh bạch hầu giảm dần và biến mất theo thời gian.
Trẻ em được khuyến cao nên tiêm nhắc lại mũi vào khoảng 11 hoặc 12 tuổi. Lần tiêm nhắc lại tiếp theo là năm 21-22 tuổi, sau đó tiếp tục nhắc lại sau mỗi 10 năm. Tiêm nhắc lại bạch hầu là đặc biệt cần thiết nếu bạn đi tới những vùng bệnh còn lưu hành cao.
Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn