Trình bày Tờ trình trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang cho biết: Thực hiện Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, sau 12 năm triển khai thi hành đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật này nhằm giải quyết những tồn tại, khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện Luật hiện hành, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác phòng, chống mua bán người hiện nay và trong thời gian tới.
Theo Bộ trưởng Bộ Công an, Dự thảo Luật gồm 8 chương, 66 điều. So với Luật hiện hành, dự thảo Luật giữ nguyên số chương; sửa đổi, bổ sung nội dung 52/58 điều, xây dựng mới 9 điều, bỏ 1 điều.
Trong đó bổ sung nhiều nội dung mới, cụ thể như: Bổ sung quy định về khái niệm "mua bán người"; sửa đổi, bổ sung quy định về căn cứ xác định nạn nhân và quy định về các nguồn tài liệu, chứng cứ để xác định nạn nhân cùng một số căn cứ khác để xác định nạn nhân.
Đồng thời bổ sung quy định về khái niệm "người đang trong quá trình xác định là nạn nhân" và bổ sung quy định về chế độ hỗ trợ, bảo vệ đối với người đang trong quá trình xác định là nạn nhân; gồm: Hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu và chi phí đi lại; Hỗ trợ y tế; Hỗ trợ tâm lý; Trợ giúp pháp lý; Hỗ trợ chi phí phiên dịch trong quá trình xác định nạn nhân. Theo Bộ trưởng Lương Tam Quang, thực tiễn thời gian qua cho thấy đây là nhóm đối tượng rất cần được hỗ trợ, bảo vệ. Việc bổ sung những quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan chức năng khi tiếp nhận những đối tượng này thực hiện các chế độ hỗ trợ nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế, ổn định tâm lý… cho họ.
Đặc biệt, bổ sung những quy định nâng cao chế độ hỗ trợ đối với nạn nhân so với quy định của Luật hiện hành; gồm: Tất cả nạn nhân có nguyện vọng trở về nơi cư trú được hỗ trợ các khoản chi phí đi lại và tiền ăn để trở về nơi cư trú; Được hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh; Được hỗ trợ để ổn định tâm lý.
Đồng thời, tất cả nạn nhân được trợ giúp pháp lý; Khi trở về nơi cư trú được xem xét hỗ trợ học nghề, tạo điều kiện để có việc làm, ổn định cuộc sống; Tất cả nạn nhân được hỗ trợ một lần tiền trợ cấp khó khăn ban đầu; Nếu có nhu cầu vay vốn để sản xuất, kinh doanh được xem xét cho vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo các chính sách tín dụng ưu đãi theo quy định của pháp luật; Được hỗ trợ chi phí phiên dịch trong thời gian lưu trú tại cơ sở trợ giúp xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân. Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền của nạn nhân, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới.
Thẩm tra dự án Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga cho rằng, việc bổ sung khái niệm "mua bán người" là một trong những điểm mấu chốt của lần sửa đổi này và là cơ sở để đổi mới căn bản về chính sách trong công tác phòng chống mua bán người. Đồng thời xác định rõ "nạn nhân", "người đang trong quá trình xác định là nạn nhân", trên cơ sở đó đề xuất chính sách, chế độ hỗ trợ cho từng nhóm đối tượng cụ thể.
Theo bà Lê Thị Nga, khái niệm "mua bán người" trong dự thảo Luật được mở rộng hơn so với quy định của Bộ luật Hình sự (Điều 150 về Tội mua bán người và Điều 151 về Tội mua bán người dưới 16 tuổi). Việc mở rộng này là phù hợp yêu cầu thực tiễn trong phòng ngừa và đấu tranh đối với nạn mua bán người. Tuy nhiên, cơ quan soạn thảo cần đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất về khái niệm "mua bán người" tại dự thảo Luật với Bộ luật Hình sự.
Tại khoản 4 Điều 5 dự thảo Luật quy định: "Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống mua bán người, ưu tiên vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn". Có ý kiến cho rằng, trên thực tế nhiều vùng khác tuy không thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhưng tình hình mua bán người lại xảy ra nghiêm trọng, diễn biến rất phức tạp. Do đó, đề nghị quy định ưu tiên bố trí ngân sách cho những vùng có tình hình mua bán người xảy ra nghiêm trọng, phức tạp. Đồng thời, rà soát để bảo đảm không chồng chéo với 3 chương trình mục tiêu quốc gia đã được phê duyệt.
Về việc trợ giúp pháp lý cho người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân (khoản 3 Điều 37), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp cho biết: theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý thì người được trợ giúp pháp lý dưới 18 tuổi chỉ gồm 3 nhóm người sau: (1) Trẻ em; (2) Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; (3) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự có khó khăn về tài chính.
Nếu người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân nếu thuộc trường hợp theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý thì mới được trợ giúp pháp lý (phải thuộc 3 nhóm người nói trên), là chưa phù hợp. Trong nhiều trường hợp, những người này là con được sinh ra trong quá trình người phụ nữ bị mua bán hoặc là người thân thích của nạn nhân.
Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị quy định theo hướng: Người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân được trợ giúp pháp lý như nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. Đồng thời, đề nghị đánh giá tác động và sửa đổi, bổ sung quy định tương ứng của Luật Trợ giúp pháp lý để bảo đảm tính thống nhất.
Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn