Hỏi: Gia đình người bạn thân của tôi có một người con đã nhiều tuổi, giục lấy vợ mãi không được. Mới đây, bạn tôi có kể rằng, sau nhiều lần bị cha mẹ giục cưới, con trai của họ đã quyết định nói lên sự thật rằng cháu là người đồng tính và đã tìm được người bạn đời. 2 đứa sẽ cưới nhau và xin con nuôi. Vậy, trường hợp cặp đôi đồng tính là con của bạn tôi nêu trên thì có thể nhận con nuôi sau khi cưới nhau không?
baotrungnguyen1…@gmail.com
Trả lời: Luật Nuôi con nuôi 2010 xác định: Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình. Tại khoản 3 điều 8 của Luật quy định về người được nhận làm con nuôi nêu rõ: "Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng".
Như vậy, một trong những điều kiện để nhận con nuôi phải là cá nhân đang độc thân hoặc vợ chồng có quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định: "Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn". "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn".
Việc đăng ký kết hôn tại Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành là "phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý".
Khoản 2 điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nêu rõ: "Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính".
Như vậy, với người đồng tính, cho dù có tổ chức đám cưới trước sự chứng kiến của bạn bè, người thân thì về mặt pháp lý cũng không được công nhận đó là quan hệ vợ chồng. Vì vậy, cặp đôi đồng tính sẽ không đủ điều kiện để nhận con nuôi. Tuy nhiên, với cá nhân người đồng tính thì có thể nhận nuôi con nuôi với tư cách là cá nhân độc thân.
Để nhận nuôi con nuôi, người nhận nuôi phải đáp ứng được các điều kiện nêu tại khoản 1 điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010:
+ Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
+ Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
+ Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
+ Có tư cách đạo đức tốt.
Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định về hơn con nuôi 20 tuổi trở lên và có điều kiện về sức khỏe kinh tế, chỗ ở.
Đối với các trường hợp sau thì không được nhận con nuôi:
+ Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
+ Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;
+ Đang chấp hành hình phạt tù;
+ Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn