Một ngày đầu tháng 5/1970, sau khi đi đổ cầu trở về, chị Quỳnh bước tới dúi vào tay tôi và nói khẽ: Của dì Mười Vàng gửi cho em, chắc là quà đặc biệt!
Đó là một vắt cơm được nhồi nhuyễn, còn mềm, to bằng ngón tay trỏ, dài khoảng 6 phân (cm). Với vắt cơm như vậy, nếu bị phát hiện, tôi có thể cho ngay vào miệng nhai và nuốt. Đó là dụng ý của người gửi.
Giữ vắt cơm trong tay, tôi xúc động và hồi hộp lạ thường. Bởi trước đó 3 ngày, tôi đã nhận được 1 thông tin mật: Tôi sẽ được dì Mười Vàng kể cho nghe chuyện của Bố già, để khi vui, tôi kể lại cho chị em tù cùng nghe. Liên tưởng đến trước lúc bị đày ra Côn Đảo, tôi cũng nhận được một thông tin rất hạn chế: Tập thể nữ tù sẽ nhận được Di chúc của Bác.
Những câu hỏi trong đầu càng khiến tôi hồi hộp và xúc động. Vắt cơm vừa mở ra, một cuộn giấy nhỏ được gấp cẩn thận, cuốn chặt trong lớp nilon. Lần mở ra, một tờ giấy nhỏ khoảng nửa trang tập học trò, chi chít chữ viết lẫn dấu hiệu tốc ký.
Đúng là di chúc của Bác. Vừa xúc động, tôi hiểu tập thể đã tin tưởng, giao nhiệm vụ cho tôi giữ di chúc và như thông tin nội bộ trước đó: "Khi vui kể lại cho chị em tù cùng nghe". Có nghĩa là, vào một thời điểm thuận lợi nhất, tôi phải tổ chức cho chị em tù tại Chuồng cọp học tập di chúc của Bác.
Nhưng để giữ được nguyên văn di chúc của Bác trong điều kiện khắc nghiệt của Chuồng cọp, chỉ có thể giữ bằng trí nhớ. Tôi tự nhủ lòng và dù bị tra khảo, thương tích đầy mình nhưng vẫn có thể học và nhớ từng lời căn dặn của Bác trong di chúc.
Đó là buổi sáng ngày 19/5/1970 - Ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của Bác. Khi 14 chị em chúng tôi bị nhốt trong Hầm đá nổi, đối diện với Chuồng cọp, thuộc nhà tù Côn Đảo, tôi thông báo: "Các chị em tập trung để Quân đọc bản di chúc của Bác". 13 chị em lặng im, những đôi mắt sáng rỡ hướng về tôi và chờ đợi…
14 chị em chúng tôi quay tròn giữa gian hầm đá và mở đầu bằng bài hát "Bác đang cùng chúng cháu hành quân" của nhạc sĩ Huy Thục: "Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận, trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác, nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người...".
Chúng tôi hát, tiếng hát từ trái tim cứ ngân vang, quyện vào nhau và tràn đầy niềm tin yêu hướng về Bác, dù cho mấy tên trật tự có ghé tai qua khe cửa lắng nghe, theo dõi.
Sau tiết mục "văn nghệ tập thể" là đến phần kể chuyện. Những câu chuyện, bài thơ của Bác mà tôi học được tại nhà tù Thủ Đức nay có dịp đọc cho tập thể nữ tù trong hầm đá cùng nghe. Chúng tôi như được nhích lại gần Bác hơn, hiểu thêm về lòng yêu nước và lý tưởng của Người ngay từ thời niên thiếu.
Chúng tôi tiếp tục kể chuyện về Bác. Từ câu chuyện khi Người xuống tàu bôn ba hải ngoại, Người vào tù, bị đày ải, Người động viên bộ đội, chiến sĩ trong đấu tranh… Và cả chuyện về anh Hoàng Sơn xăm tên Bác lên ngực, bị bọn cai ngục dùng chày vồ đánh nát ngực nhưng anh nhất quyết không li khai….
Bà Lê Hồng Quân tên thật là Đào Thị Huyền Nga, sinh năm 1947, quê xã Phú Thứ, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (nay là phường Phú Thứ, huyện Cái Răng, TP Cần Thơ), hiện đang sống tại TPHCM.
Bà từng là Quyền xã đội trưởng xã Phú Thứ (1962), cán bộ Tiểu đoàn Tây Đô tại Cần Thơ (1965). Năm 1968, bà được giao nhiệm vụ làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Nữ biệt động Lê Thị Riêng - Đơn vị Nữ biệt động thuộc Ban Phụ vận Khu ủy T4 (Khu ủy Sài Gòn - Gia Định). Trong trận đánh đợt 2 Tết Mậu Thân 1968, bà bị thương nặng và bị địch bắt giam tại nhà tù Thủ Đức. Từ nhà tù Thủ Đức, bà bị chuyển sang khám lớn Chí Hòa và đày ra Côn Đảo vào tháng 11/1969, giam tại Chuồng cọp. Năm 1974 bà được về đất liền sau khi Hiệp định Paris được ký kết.
Qua những câu chuyện xúc động về Bác, tôi nhận thấy thời điểm đã chín mùi và quyết định sẽ báo cáo với các chị em nguyên văn di chúc của Bác. Tôi hồi hộp thông báo: Các chị em tập trung để Quân đọc bản di chúc của Bác. Cả hầm đá sửng sốt, 13 chị em lặng im, những đôi mắt sáng rỡ hướng về tôi và chờ đợi…
Tôi biết, dù không nói ra, nhưng đôi mắt của chị em đã nói lên điều chị em thắc mắc: Làm sao tôi có được nguyên văn bản di chúc của Bác? Nhưng khi tôi đọc lên, không còn ai tỏ ra hoài nghi. Bởi những ý chặt chẽ đầy tình nhân ái, lời văn trong sáng, giản dị mà sâu sắc. Chỉ có Bác mới có được cách viết của nội dung ấy. Các chị em lặng đi vì xúc động.
Lần đầu đọc toàn bộ bản di chúc của Bác, cũng là lần đầu tiên tôi ý thức được, không thể bằng lòng một cách đơn giản với cái chết. Tôi tự nhủ lòng, phải vượt lên, phải sống và giữ được di chúc của Bác Hồ cho tập thể nữ tù trong hầm đá nói riêng, mà cho nhiều chiến sĩ cách mạng đang bị bắt, tra tấn dã man tại nhà tù Côn Đảo này.
Cũng vì thế, trong lần học tập di chúc của Bác, 14 nữ tù chúng tôi rút ra những phần thiết thực cho tập thể thảo luận kỹ phần Bác nói về Đảng, về đoàn kết, về sự quan tâm đến giáo dục, dìu dắt thế hệ trẻ. Chúng tôi đã đặt ra và thảo luận vấn đề: "Cần phải vươn lên thế nào để xứng đáng với tấm lòng của Người".
Đó là phải sống, sống để tiếp tục chiến đấu và cống hiến cho lý tưởng cách mạng. 14 nữ tù chúng tôi, tất cả đều què, liệt, cạn kiệt sức khỏe và đang nhích dần đến cái chết. Nhưng sau khi buổi học di chúc của Bác, chị em chúng tôi như được tiếp thêm sức mạnh, đã vượt được tổn thất hy sinh, cùng với tập thể trong tù bước vào thế trận mới.
Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn