Hội thảo nhằm trao đổi, thảo luận, tham vấn các chủ thể có liên quan về các nhiệm vụ, hành động để thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, song song với việc thực hiện cam kết mạnh mẽ về đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050 của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị COP26.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 hướng tới khát vọng phát triển nhanh, bền vững đất nước, hàng loạt chiến lược, chính sách trên các ngành, lĩnh vực đã được cập nhật, sửa đổi và ban hành trong thời gian gần đây.
Trong đó, việc Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 vào tháng 10/2021, ngay trước thềm Hội nghị COP26 và sau đó, ngày 22/7/2022 vừa qua, Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 là những điểm nhấn hết sức quan trọng.
Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh với 18 nhóm chủ đề, 57 nhóm nhiệm vụ, hoạt động và 134 nhiệm vụ, hoạt động cụ thể hướng tới 4 mục tiêu quan trọng của Chiến lược:
1/ Giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP;
2/ Xanh hóa các ngành kinh tế;
3/ Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững;
4/ Xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu;
Đối với việc chuyển đổi năng lượng theo hướng xanh, bền vững, Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2021-2030 nhấn mạnh định hướng: "Nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng trong hoạt động sản xuất, vận tải, thương mại và công nghiệp; bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia theo hướng phát triển đồng bộ các nguồn năng lượng, khai thác và sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng trong nước và chuyển đổi cơ cấu nguồn năng lượng theo hướng giảm sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch; đẩy mạnh khai thác có hiệu quả và tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng của quốc gia". Có thể nói đây là định hướng toàn diện, tổng thể đối với việc chuyển đổi ngành năng lượng để góp phần vào mục tiêu giảm phát thải của quốc gia.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An cho biết, dự báo, nhu cầu năng lượng và nhu cầu điện của Việt Nam trong những năm tới tiếp tục tăng nhanh. Song song với mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng, Việt Nam cũng đang xây dựng chương trình chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ tới năm 2050.
Tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu COP26 được tổ chức tại Glasgow (Vương quốc Anh) vào tháng 11/2021, Việt Nam đã đưa ra cam kết đạt phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Để thực hiện các cam kết, Việt Nam cần thêm (giá năm 2020) khoảng 100 tỷ USD cho thích ứng biến đổi khí hậu, 373 tỷ USD để đưa mức phát thải về "0" vào năm 2050.
Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) Hoàng Tiến Dũng cho biết, đến năm 2045, công suất nguồn điện than đã giảm khoảng 23.400MW, công suất nguồn điện sử dụng LNG giảm khoảng 24.350MW, trong khi đó điện mặt trời tăng 33.000MW, điện gió trên bờ tăng khoảng 23.000MW và điện gió ngoài khơi tăng 28.500MW. Các nguồn điện tái tạo khác cũng tăng đáng kể.
"Nhờ việc phát triển mạnh năng lượng tái tạo, chuyển đổi nhiên liệu của các nhà máy nhiệt điện nên lượng phát thải CO2 của phương án phát triển điện lực rà soát sau COP26 đã giảm mạnh" - ông Hoàng Tiến Dũng nói.
Phát thải CO2 sẽ đạt đỉnh vào giai đoạn 2031 - 2035 ở mức 231 triệu tấn, sau đó giảm dần. Đến năm 2045, lượng phát thải CO2 giảm xuống khoảng 175 triệu tấn, nghĩa là giảm khoảng 208 triệu tấn CO2 so với các phương án trước COP26. Đến năm 2050, ước tính phát thải CO2 từ lĩnh vực sản xuất điện còn khoảng 40 triệu tấn/năm, góp phần đáp ứng việc cam kết của Việt Nam tại COP26 về phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Thị Bích Ngọc đánh giá, vấn đề lớn nhất ở đây chính là nguồn lực thực hiện. Về tổng thể, theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam vừa mới công bố (CCDR) cho thấy, tổng nhu cầu tài chính tăng thêm của Việt Nam để xây dựng khả năng chống chịu và khử các bon, hướng tới phát thải ròng bằng "0" có thể lên tới 368 tỷ USD trong giai đoạn 2022 - 2040, hay xấp xỉ 6,8% GDP mỗi năm.
Trong đó, riêng lộ trình xây dựng khả năng chống chịu sẽ chiếm khoảng 2/3 số tiền này, vì cần huy động lượng vốn đáng kể để bảo vệ tài sản và cơ sở hạ tầng cũng như những người dân dễ bị tổn thương. Chi phí của lộ trình khử các bon chủ yếu phát sinh từ ngành năng lượng, gồm chi phí đầu tư vào năng lượng tái tạo và quản lý quá trình chuyển dịch ra khỏi năng lượng than, có thể tiêu tốn khoảng 64 tỷ USD từ năm 2022 đến năm 2040.
Theo Thứ trưởng Đặng Hoàng An, chuyển dịch năng lượng không chỉ là vấn đề của nội bộ ngành năng lượng, mà chính là chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế từ mô hình thâm dụng nhiều năng lượng sang mô hình sử dụng năng lượng một cách hiệu quả.
Các tính toán của Bộ Công Thương cho thấy, nhu cầu điện và năng lượng tiếp tục tăng trưởng cao là thách thức lớn. Vì vậy, xây dựng chiến lược phát triển và chuyển dịch năng lượng phù hợp, khả thi, bền vững, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước là nhiệm vụ có tính quan trọng bậc nhất.
Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc chia sẻ thêm, trong quá trình chuyển dịch năng lượng, trước tiên cần tính toán kỹ lưỡng lộ trình để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
"Quá trình chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững là trách nhiệm của tất cả các bên liên quan từ T.Ư đến địa phương, các ngành, các cấp, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng người dân" - bà Nguyễn Thị Bích Ngọc nhấn mạnh. Do đó, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của người dân và doanh nghiệp về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; hướng đến tiêu dùng xanh, lối sống xanh, sử dụng các sản phẩm/dịch vụ thân thiện với môi trường.
Một yếu tố quan trọng khác được Thứ trưởng Bộ KH&ĐT đề cập tới, Việt Nam muốn thành công cần phải có sự cam kết hỗ trợ về mặt tài chính, kỹ thuật thực sự từ các quốc gia phát triển. Thực tế, đóng góp phát thải khí nhà kính của Việt Nam rất nhỏ, chỉ khoảng 0,8% so với tổng lượng phát thải của toàn cầu. Do vậy, trong thời gian tới Việt Nam mong muốn nhận được hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật một cách thỏa đáng từ các đối tác phát triển để triển khai thành công lộ trình chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững.
Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn