Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm 1,93 lần
Tại Hội thảo phổ biến và lập kế hoạch triển khai về tăng cường chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em nhằm giảm tử vong bà mẹ, trẻ em và và trẻ sơ sinh, do Bộ Y tế tổ chức ngày 8/12, TS. Trần Đăng Khoa, Phó Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ- Trẻ em (Bộ Y tế) cho biết, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em những năm qua đã đặt được những kết quả quan trọng.
Cụ thể, từ năm 2000 đến 2021, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm 1,93 lần, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi giảm 2,17 lần và tử vong sơ sinh giảm 1,55 lần.
Ngoài ra, tỷ lệ phụ nữ đẻ được khám thai từ 4 lần trở lên đạt trên 80%; tỷ lệ phụ nữ đẻ được nhân viên y tế đỡ duy trì 95-97%; tỷ lệ chăm sóc sau sinh trong 7 ngày đầu sau đẻ đạt gần 80%.
Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong mẹ có sự chênh lệch giữa các vùng miền và nhóm dân tộc. Trong đó, tử vong mẹ ở vùng 3 gấp 3,5 lần vùng 1, tỷ lệ tử vong mẹ ở người dân tộc Hmong gấp 7-8 lần dân tộc Kinh, Tày. Nguyên nhân trực tiếp gây tử vong mẹ là băng huyết (chiếm 52%), còn lại là các nguyên nhân gián tiếp.
"Tử vong mẹ do nguyên nhân gián tiếp tăng như các bệnh không lây nhiễm, tình trạng trầm cảm khi mang thai và sau sinh, bệnh di truyền, chuyển hóa dị tật bẩm sinh, suy dinh dưỡng thấp còi ở miền núi và béo phì ở thành thị. Ngoài ra, đó là sự bùng phát trở lại các bệnh như sởi, bạch hầu, sốt xuất huyết và tác động của thiên tai, địch họa, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường", TS. Trần Đăng Khoa thông tin.
Về tình hình chăm sóc sức khỏe trẻ em, từ năm 2000 đến 2021, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm 1,93 lần; tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi giảm 2,17 lần và tử vong sơ sinh giảm 1,55 lần.
Tuy vậy khoảng cách về tử vong trẻ em dưới 1 tuổi ở dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh ngày càng tăng. Ví như, tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi ở dân tộc Hmong, Bana cao gấp 2,5 lần dân tộc Kinh, người Hoa.
Ngoài ra, tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi cũng được cải thiện rõ rệt giai đoạn 2010-2020, từ 17,5% giảm xuống còn 11,5%.
Đề xuất hỗ trợ 12 tỉnh miền núi khó khăn
Tại hội thảo, TS.Trần Đăng Khoa cho biết, định hướng chính sách trong thời gian tới là lựa chọn các can thiệp nhằm giảm hơn nữa tử vong mẹ, tử vong trẻ sơ sinh và trẻ em phù hợp với điều kiện và yếu tố văn hóa của từng địa phương.
Theo đó, Bộ Y tế đặt mục tiêu giảm tử vong trẻ sơ sinh, trẻ em dưới 1 tuổi và trẻ em dưới 5 tuổi nhằm thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền về tiếp cận, sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trẻ em có chất lượng.
Đến năm 2030, tỷ lệ phụ nữ đẻ được người đỡ đẻ có kỹ năng hỗ trợ duy trì trên 95% trong toàn quốc, miền núi đạt 85%; Tỷ lệ trẻ có cân nặng sơ sinh dưới 2.500gram xuống dưới 7,5%; Tỷ lệ trẻ sơ sinh được chăm sóc sơ sinh thiết yếu sớm đạt 90%; Tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ tiếp tục đạt trên 95%; Tỷ lệ trẻ từ 0-59 tháng tuổi viêm phổi được điều trị bằng kháng sinh đạt 95%...
Để thực hiện các mục tiêu trên, Bộ Y tế sẽ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính rà soát, nghiên cứu, đồng thời đề xuất Thủ tướng Chính phủ xem xét, hỗ trợ để triển khai can thiệp Chương trình tại 12 tỉnh miền núi khó khăn và có tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi cao. Bao gồm Lai Châu, Kon Tum, Điện Biên, Hà Giang, Quảng Trị, Lào Cai, Yên Bái, Gia Lai, Đắk Nông, Đắk Lắk, Cao Bằng và Sơn La. Năm 2025, Bộ Y tế và các đơn vị liên quan sẽ tiến hành đánh giá hiệu quả để xem xét nhân rộng cho giai đoạn sau.
Ngoài ra, Bộ Y tế cũng sẽ xây dựng, cập nhật các quy định, chính sách tăng cường chăm sóc sức khỏe, giảm tử vong trẻ sơ sinh và trẻ em; ban hành các tài liệu, hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi. Đồng thời, Bộ sẽ xây dựng tiêu chí về nhân lực sản/nhi theo dân số/giường bệnh và chính sách thu hút cán bộ y tế lĩnh vực Sản Nhi cho các tỉnh miền núi, ông Khoa thông tin.
Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn