“Đồng chí Nguyễn Thị Thập-cuộc đời và sự nghiệp” (P1)

14:26 | 04/03/2016;
phunuvietnam.vn giới thiệu một số tham luận tại Hội thảo “Đồng chí Nguyễn Thị Thập – Cuộc đời và sự nghiệp” do Hội LHPNVN phối hợp với Tỉnh ủy Tiền Giang tổ chức ngày 9/3, kỷ niệm 20 năm ngày mất của cố Chủ tịch Hội LHPNVN Nguyễn Thị Thập (1/2 âm lịch).

NHỮNG KỶ NIỆM VỀ ĐỒNG CHÍ NGUYỄN THỊ THẬP

                                                                                 

Bác Hồ và Chủ tịch Hội LHPNVN Nguyễn Thị Thập với đại biểu phụ nữ các dân tộc ít người năm 1965   Ảnh tư liệu.

Tôi quê ở xã Bình Ân, huyện ở Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, cùng chung mảnh đất Tiền Giang quê hương của Bà Nguyễn Thị Thập. Không có cơ hội được học tập, công tác hoặc trực tiếp được bà Thập dìu dắt, có thể nói các kỷ niệm của tôi về bà Thập không nhiều nhưng thực sự có ý nghĩa, gắn liền với những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời tôi. Đó là quãng thời gian tuổi thơ, tôi bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng, thời gian ở tù và đặc biệt là thời gian công tác ở TW Hội LHPN Việt Nam.

Tôi sinh ngày 18/8/1945, trước ngày Cách mạng Tháng Tám một ngày. Tuổi thơ tôi lớn lên đã chứng kiến cảnh quê hương bị giặc giầy xéo, tôi đã được nghe nhiều câu chuyện lịch sử và được biết bà Nguyễn Thị Thập là người phụ nữ đã lãnh đạo phong trào Nam kỳ khởi nghĩa. Tôi rất ấn tượng với hình ảnh của Bà Thập, lúc đó được gọi là “Chị Mười” gần đến ngày sinh nở vẫn thắt khăn, nịt bụng, chỉ huy đồng bào, trương cờ, biểu ngữ xông vào cướp đồn Tam Hiệp trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Đây cũng là lúc Bà Thập phải trải qua những tháng ngày đau thương, nếm trải sự mất mát to lớn: người chồng thân yêu của bà, người chiến sĩ cộng sản kiên cường Lê Văn Giác bị giặc bắt và kết án tử hình. Bản thân bà bị giặc truy nã khắp nơi, sinh con trai út được 8 ngày, bà phải nuốt nước mắt gửi con để ra đi hoạt động, gây dựng cơ sở, củng cố phong trào…

Trong tôi, có cả tình cảm yêu thương, khâm phục, lòng tự hào về Bà và cả niềm tin tưởng, muốn theo gương bà đan xen lẫn lộn. Truyền thống quê hương, gia đình, như một lẽ tự nhiên đưa tôi đến với cách mạng. Cha đi tập kết, má ở lại hoạt động cách mạng. Tôi làm liên lạc giúp má và các chú, đi rải truyền đơn cùng chị Hai. Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, tôi chính thức thoát ly gia đình lên Sài Gòn tham gia công tác vận động thanh niên, sinh viên, học sinh khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

Năm 1964 tôi bị bắt tại Sài Gòn trong một lần đi rải truyền đơn trong chiến dịch tuyên truyền chống lại lệnh tổng động viên toàn lực, chống bắt lính, chống quân sự hóa học đường, quân sự hóa toàn dân của chính quyền. Suốt 11 năm trong tù ở khắp các nhà lao Gia Định, Thủ Đức, Chí Hòa, Tân Hiệp và Côn Đảo, cũng như bao chị em tù nhân khác, chúng tôi đã nếm trải những tháng ngày cực khổ, đối mặt với những âm mưu thủ đoạn thâm độc, gian ác của kẻ thù, bị tra tấn, cực hình, có cả những phút giây yếu đuối, mềm lòng nhưng cuối cùng chúng tôi đã đứng vững, vượt qua thử thách. Chúng tôi đã lập ra ban lãnh đạo bên trong nhà tù. Soạn những bài ca chiến đấu, phân phát truyền đơn bí mật do chúng tôi tự viết, tổ chức kỷ niệm những ngày lịch sử cách mạng. Giúp nhau học chính trị, quân sự, y tế, văn hóa, làm thơ, ca múa, nấu ăn, may, đan, thêu... nhưng quan trọng hơn hết là học cách sống, cách đối nhân xử thế ở đời, cách đánh địch và cách làm người Cộng sản. Sức mạnh của người tù là ý chí, tinh thần được xây dựng từ tình yêu Đảng, yêu Bác Hồ, yêu đất nước, nhân dân, yêu đồng chí, đồng đội. Nhà tù đã trở thành trường học cách mạng, trở thành trường đại học chính trị của chúng tôi, giúp các chiến sĩ cách mạng trở nên có nghị lực hơn, vượt qua thời gian, không gian, gắn bó hơn với cuộc cách mạng bên ngoài nhà tù.

Trong những năm tháng tù ngục đó, chúng tôi đã học tập, rèn luyện được rất nhiều. Dù gian khổ nhưng chị em vẫn luôn động viên nhau học tập, rèn luyện. Chúng tôi học văn hóa, tập đánh vần, học từng bài thơ, học cửu chương, người biết dạy cho người chưa biết, chỉ có hai người trong phòng giam cũng dạy nhau cùng học. Lúc đó, chúng tôi đã lấy câu chuyện bà Thập học văn hóa để động viên nhau. Tôi thường kể cho chị em câu chuyện Bà Thập không biết chữ nên khi ký bà chỉ đánh dấu (chữ thập), đó có thể là lý do bà tự đặt tên cho mình là Thập nhưng bà đã cố gắng nỗ lực học tập, công tác, trở thành một cán bộ cách mạng, một trong 10 nữ đại biểu Quốc hội đầu tiên, là Phó Chủ tịch Quốc hội, Hội trưởng Hội LHPN Việt Nam, một nhà lãnh đạo xuất sắc, tiêu biểu của phụ nữ, lấy đó làm tấm gương để động viên mình và chị em trong tù học tập. Các câu chuyện về bà Thập luôn là tấm gương động viên chị em ráng học tập, rèn luyện, phấn đấu vươn lên. Với riêng tôi, suốt thời giạn 11 năm ở tù của giặc, tôi luôn cố gắng theo gương các má, các dì, các chị em đi trước, nỗ lực học tập rèn luyện, giữ vững khí tiết, bản lĩnh của người chiến sĩ cách mạng.

Tháng 3 năm 1975, tôi được trả lại tự do và tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh trong mũi tiến công chiếm lĩnh các mục tiêu ở Gia Định của Thành đoàn. Trong niềm vui chung lớn lao, bất tận của cả dân tộc, gia đình tôi được đoàn tụ. Tôi hăm hở lao vào công tác mới theo yêu cầu của cách mạng, cùng các đồng chí, đồng đội lãnh đạo nhân dân chung tay, hiệp lực xây dựng lại thành phố sau ngày giải phóng.

Cuối năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tôi được bầu vào Ban chấp hành TW Đảng. Theo sự phân công của Đảng, tôi ra Hà Nội nhận công tác mới, làm Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam. Công tác phụ nữ thời kỳ đổi mới có nhiều khó khăn và yêu cầu rất cao. Đã từng trải qua chiến tranh, thấu hiểu hoàn cảnh khó khăn của người phụ nữ trong điều kiện đất nước còn nghèo khó sau mấy chục năm chiến tranh, tôi cùng với tập thể Đảng đoàn và Ban thư ký ngày đêm trăn trở, suy nghĩ để làm sao tham mưu cho Đảng và Nhà nước những chính sách phù hợp để tạo điều kiện và nâng cao vị thế xã hội của người phụ nữ, giúp chị em vượt qua nghèo đói, thiếu thốn, thực hiện tốt hơn nữa vai trò người vợ, người mẹ trong gia đình. Tôi được nghe các cô, các chị lãnh đạo Hội cũ nói nhiều về Bà Thập. Đó là một người làm việc nguyên tắc, chu đáo, thận trọng, chỉ đạo sâu sát tuy không được học hành nhiều nhưng là người có tư duy cách mạng và phương pháp lãnh  đạo sâu sắc, có tầm nhìn chiến lược. Bà Nguyễn Thị Thập cũng là người đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam dài nhất trong 18 năm từ 1956-1974, đồng thời cũng đảm nhiệm cương vị Phó Chủ tịch Quốc hội liên tục trong 21 năm từ khóa III đến khóa VI (1960-1981).

Trên cương vị là Chủ tịch Hội, Bà Nguyễn Thị Thập đã cùng với tập thể lãnh đạo đề ra những chủ trương chỉ đạo sáng tạo, phù hợp với tình hình của đất nước, tổ chức nhiều hoạt động, nhiều phong trào thi đua sôi nổi của phụ nữ tiêu biểu là phong trào “Năm tốt”, và phong trào “Ba đảm đang”; tham mưu với Đảng và Nhà nước ban hành Luật Hôn nhân và Gia đình, kiến nghị và đề xuất cụ thể, thiết thực với Đảng và Nhà nước ban hành ba Nghị quyết về công tác phụ vận. Đó là Nghị quyết số 152/NQ-TW ngày 10/01/1967 “Về một số vấn đề về tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận”; Nghị quyết số 153/NQ-TW ngày 10/01/1967 về “Công tác cán bộ nữ”; Nghị quyết 31-CP ngày 8/3/1967 “Về việc tăng cường lực lượng lao động phụ nữ trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước” nhằm quán triệt công tác cán bộ nữ, lao động nữ trong các cấp ủy Đảng và cơ quan Nhà nước. Đây là những Nghị quyết rất quan trọng, có vai trò to lớn trong việc tạo điều kiện, cơ hội cho phụ nữ vươn lên, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc và sự nghiệp giải phóng phụ nữ, từng bước thực hiện mục tiêu nam nữ bình đẳng.

Những đóng góp của bà Thập cho phong trào phụ nữ, những hoạt động của bà Thập trong vai trò chỉ đạo phong trao phụ nữ, tham mưu chiến lược cho Đảng, Nhà nước về công tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ… là những bài học kinh nghiệm quý báu giúp tôi và tập thể Đảng đoàn phụ nữ TW thực hiện tốt công tác chỉ đạo phong trào phụ nữ thời kỳ này. Cùng với việc tham gia góp ý sửa đổi và bổ sung Luật Hôn nhân gia đình cho phù hợp với cách nhìn đổi mới trước quyền lợi của phụ nữ Việt Nam, Hội LHPN Việt Nam đã tham gia xây dựng Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (năm 1989) trong đó có nhiều chương nói về sức khỏe phụ nữ và trẻ em, về sử dụng lao động nữ, về quyền khám chữa bệnh của phụ nữ. Tổng kết phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và chỉ đạo thực hiện hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học” với nội dung rất thiết thực,  tạo nên sức thu hút đối với phong trào phụ nữ cả nước. Quyết định 163/HĐBT ban hành ngày 19/10/1988 kèm theo quy định về trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc để các cấp Hội phụ nữ tham gia quản lý nhà nước đây là quyết định quan trọng nhằm cụ thể hóa Nghị quyết 176A của Hội đồng Bộ trưởng, đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống. Một số chính sách, pháp luật về phụ nữ và trẻ em cũng được hình thành từ điều kiện này.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, tôi vinh dự được bầu vào Ban bí thư TW Đảng. Đảng đoàn Hội LHPN Việt Nam được phân công giúp Ban bí thư chỉ đạo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 44 của Ban bí thư TW Đảng về công tác cán bộ nữ trong điều kiện chưa hề có một hội nghị sơ kết nào trước đó; chỉ đạo việc soạn thảo Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị về “Đổi mới, tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”- Nghị quyết đầu tiên của Đảng về công tác vận động phụ nữ trong thời kỳ đất nước thống nhất, non sông thu về một mối; soạn thảo Chỉ thị 28 nhằm cụ thể hóa Nghị quyết 04 của Bộ chính trị; Chỉ thị 37 của Ban bí thư về “Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”. Những văn bản mang tính pháp lý cơ bản này đã tạo nên sự chuyển biến về nhận thức đối với vai trò, vị trí của phụ nữ và công tác phụ nữ trong xã hội ta thời kỳ đổi mới. Càng ngày, tỷ lệ phụ nữ tham gia công tác quản lý trong các cấp ủy Đảng, chính quyền và cơ quan dân cử càng cao hơn. Càng ngày càng có có nhiều phụ nữ có mặt trong các lĩnh vực hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật, đánh dấu sự tiến bộ mới của người phụ nữ Việt Nam thời kỳ đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Phong trào phụ nữ có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, tạo nên những hoạt động sôi nổi và đi vào chiều sâu, công tác Hội được xã hội hóa, vai trò, vị trí của tổ chức Hội phụ nữ được đề cao, được các cấp ủy Đảng và chính quyền đánh giá là một đoàn thể hoạt động có hiệu quả cao. Bên cạnh đó Ủy ban Quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam ra đời và hoạt động, với dấu ấn xây dựng “Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000” và “Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh” được coi là những văn kiện tiến bộ về bình đằng giới…

Nhớ lại thời kỳ 12 năm công tác ở Trung ương Hội LHPN Việt Nam, tôi còn có một kỷ niệm nho nhỏ gắn bó với một vật dụng của bà Thập từng sử dụng. Năm 1987, khi mới ra Hà Nội về cơ quan TW Hội công tác, tôi được cơ quan bố trí nghỉ tại khu nhà bà Thập đã từng ở và được sử dụng chiếc giường cũ của Bà Thập. Chiếc giường nhỏ rộng khoảng 1,4m, đã cũ, đơn sơ nhưng tôi rất mừng vì luôn cảm thấy sự ấm cúng và tự nhủ phải luôn cố gắng làm theo những điều Bà Thập đã làm để đưa phong trào phụ nữ Việt Nam phát triển. Chiếc giường này tôi đã sử dụng suốt thời gian công tác ở cơ quan Trung ương Hội, khi làm Phó chủ tịch Quốc hội cũng như khi chuyển sang công tác ở Phủ Chủ tịch nước, tính ra cũng khoảng 24 năm. Khi được nghỉ hưu, tôi đã định mang chiếc giường về Nam nhưng sau lại nghĩ lại và quyết định gửi cho Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam lưu giữ. Tôi coi đó là một kỷ vật thiêng liêng, thể hiện tình cảm của một người con miền Nam, một người cán bộ lớp sau luôn tâm niệm và cố gắng học tập tác phong làm việc và chỉ đạo phong trào sâu sát, cẩn trọng, tỷ mỷ của Bà Thập. Tôi còn vô cùng khâm phục Bà Thập ở tư duy sáng tạo và tầm nhìn chiến lược của một nhà lãnh đạo phong trào phụ nữ trong công tác viết sử và giáo dục truyền thống của phụ nữ Việt Nam và Hội LHPN Việt Nam.

Lần giở lại trang lịch sử của Hội LHPN Việt Nam, chúng ta biết rằng, ngay từ những trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, dưới sự chỉ đạo của Bà Nguyễn Thị Thập, TW Hội LHPN Việt Nam đã tập trung thực hiện Nghị quyết số 238/TW ngày 2/11/1974 về việc Tổng kết lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam. Sau gần 6 năm nỗ lực nghiên cứu, biên soạn công trình Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam và đã hoàn thành. Đồng thời, ngay từ đầu những năm 1980, trong điều kiện vô cùng khó khăn thiếu thốn của đất nước những năm đầu sau giải phóng, bà Nguyễn Thị Thập cũng đã có ý tưởng xây dựng Nhà truyền thống phụ nữ Việt Nam để lưu giữ các hình ảnh, hiện vật về những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, góp phần giáo dục truyền thống cho các tầng lớp phụ nữ và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Khi trở về Nam, đứng trước nguyện vọng của các thế hệ cán bộ Hội về việc cần phải chung sức viết lại lịch sử phong trào phụ nữ Nam bộ, Bà Nguyễn Thị Thập đã đứng ra chủ trì chỉ đạo công tác quan trọng này. Những kinh nghiệm trong tổ chức biên soạn bộ Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam được Bà và tập thể Tổ Sử Phụ nữ Nam bộ thực hiện với sức sáng tạo và lòng nhiệt thành vô bờ. Bên cạnh việc chỉ đạo thu thập tư liệu về cuộc đấu tranh của phụ nữ Nam bộ từ ngày có Đảng để phục vụ việc biên soạn cuốn sử, ngay từ đầu Bà Thập đã có tầm nhìn chiến lược về việc thu thập hiện vật để trưng bày vì theo bà "đó là những kỷ vật vô giá, gắn liền với những thành quả cách mạng và xương máu của chị em trong các thời kỳ", "có sức thuyết phục cao hơn, giúp người xem thấy rõ những điều ta nói là có thật". Cần "phải có khu trưng bày các kỷ vật, lúc đầu nhỏ, dần dần tài liệu, hiện vật sẽ nhiều hơn thì chúng ta sẽ phát triển lớn ra, đáp ứng nhu cầu của người tham quan, nhất là lòng mong mỏi của chị em phụ nữ Nam bộ"; "bằng mọi cách phải dựng được bức tượng "Bà mẹ Việt Nam"... để lưu lại cho các thế hệ mai sau, giúp các em, các cháu biết càng nhiều càng tốt về những cống hiến lớn lao mà trong suốt hai thời kỳ chiến đấu giữ nước và dựng nước của các thế hệ đi trước đã làm".

Từ cuộc họp đầu tiên về ý tưởng viết lịch sử phong trào phụ nữ Nam bộ (20/10/1982), sau 5 năm nỗ lực hoạt động, Tổ Sử Phụ nữ Nam bộ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bà Nguyễn Thị Thập đã hoàn thành cuốn sử "Truyền thống Cách mạng của phụ nữ Nam bộ Thành đồng", khánh thành Nhà truyền thống Phụ nữ Nam bộ và đến dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5/1990, Nhà truyền thống được mở rộng và đổi tên thành Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ. Công trình Tượng đài "Bà mẹ Việt Nam" đúc bằng đồng, nặng 4,5 tấn, cao 4,5 m tiếp tục được triển khai và chính thức khánh thành đúng dịp kỷ niệm 62 năm ngày thành lập Hội LHPN Việt Nam.     

Kế thừa thành quả của các thế hệ lãnh đạo Hội đi trước, thực hiện tâm nguyện về xây dựng Nhà truyền thống phụ nữ Việt Nam được Bà Nguyễn Thị Thập khơi nguồn và bà Nguyễn Thị Định tiếp nối, Hội LHPN Việt Nam đã tập trung chỉ đạo việc xây dựng Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. Ra đời ngày 09/01/1987, đến 20/10/1995 Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam đã khánh thành và mở cửa đón khách tham quan. Cùng với việc xây dựng bảo tàng, công trình biên soạn lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam giai đoạn 1975-1995 cũng được tiến hành khẩn trương. Kết quả là đến năm 1996 cuốn sử "Hai mươi năm một chặng đường phát triển của phụ nữ Việt Nam" (1975-1995) đã hoàn thành.

Có thể khẳng định rằng, việc tổng kết và viết sử phụ nữ Nam bộ, xây dựng Nhà truyền thống Phụ nữ Nam bộ cũng như viết sử phong trào phụ nữ Việt Nam, xây dựng Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam là những hoạt động lớn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Hội LHPN Việt Nam trong công tác giáo dục truyền thống mà người khơi nguồn là Bà Nguyễn Thị Thập. Đến nay, cả hai Bảo tàng đều đã phát triển lớn mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục truyền thống cho các tầng lớp phụ nữ và nhân dân, trở thành những bảo tàng tên tuổi, được công chúng trong và ngoài nước biết đến, đặc biệt là Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam đã trở thành một trong 25 bảo tàng hấp dẫn nhất châu Á.

Có thể nói, Bà Nguyễn Thị Thập là người rất tâm huyết với công tác giáo dục truyền thống nói chung, giáo dục truyền thống phụ nữ Việt Nam nói riêng. Tôi còn nhớ những năm bà Thập lâm bệnh, khi tôi đến thăm, bà nói truyền thống phụ nữ rất dày, phải giáo dục truyền thống cho phụ nữ Việt Nam, giữ cốt cách phụ nữ Việt Nam. Đau đáu với việc giáo dục truyền thống, giữ gìn thuần phong mỹ tục của người phụ nữ Việt Nam, Bà Thập không chỉ lo làm những việc lớn như tổng kết lịch sử, làm Nhà truyền thống phụ nữ mà còn thường xuyên quan tâm chú ý từng việc nhỏ, góp ý, uốn nắn cho cán bộ phụ nữ đến từng chi tiết, kể cả việc ăn mặc của phụ nữ. Bà thường nói: áo dài là nét đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam, phải chú ý giữ gìn nét đẹp truyền thống đó. Một lần tôi đón đoàn phụ nữ Pháp do chị Silvie Jan Chủ tịch Hội Phụ nữ Pháp, đồng thời là Chủ tịch Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế làm trưởng đoàn sang thăm Việt Nam. Sau buổi tiếp chính thức, bạn đề nghị làm việc với một số ban chuyên đề. Hôm sau, khi bạn đang làm việc tôi có đi ngang qua và bước vào chào, truyền hình đang quay buổi làm việc và cũng ghi hình tôi luôn. Tối đó, bà Thập xem tivi thấy tôi mặc áo cộc tay, liền gọi điện nhắc nhở ngay: “Mỹ Hoa nhớ mình là phụ nữ nên phải mặc áo dài; nhất là khi tiếp xúc gặp gỡ với bè bạn quốc tế vì đó là hình ảnh của phụ nữ Việt Nam”. Chuyện nhỏ thôi nhưng khiến tôi hết sức cảm động vì thấy bà luôn quan tâm theo dõi, nhắc nhở mình chu đáo như một người Bà, người Mẹ đối với con, cháu trong gia đình.

Đến nay, Bà Thập đi xa đã 20 năm nhưng tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh đôn hậu của bà khi chị em đến thăm chúc bà sống lâu trăm tuổi, bà chỉ mỉm cười, giơ tay ý nói “một chút thôi”. Cuộc đời hoạt động và những đóng góp của Bà cho cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam. Là người con của đất Tiền Giang, cùng quê hương Bà Thập, trong suốt những tháng năm hoạt động trong phong trào phụ nữ, tôi luôn cố gắng thực hiện những điều mong ước của Bà Thập, cố gắng theo bước chân người đi trước, các vị lãnh đạo phong trào phụ nữ tiền bối như bà Thập để phong trào phụ nữ Việt Nam ngày càng phát triển, dù hội nhập, tiếp thu cái mới nhưng vẫn giữ cốt cách, truyền thống của dân tộc Việt Nam, phụ nữ Việt Nam.

Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn