Ngày 24/10, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo tham vấn “Thực trạng giải quyết tranh chấp bằng hoà giải ở cơ sở” do Bộ Tư pháp phối hợp với EU và UNDP tổ chức, trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam” (Dự án EU JULE). Mục tiêu của hội thảo nhằm chia sẻ các phát hiện chính về chất lượng và hiệu quả giải quyết tranh chấp ở cơ sở thông qua hoạt động hoà giải tại 3 tỉnh Hà Giang, Đắk Nông và Kiên Giang, chia sẻ các kiến nghị giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả giải quyết tranh chấp ở cơ sở thông qua hoạt động hoà giải.
Phát biểu tại hội thảo, ông Lê Vệ Quốc, Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật (Bộ Tư pháp) cho biết hoạt động hòa giải ở cơ sở đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư và tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế, khi quan hệ cộng đồng làng xã ổn định, bền chặt, các thôn, bản, tổ dân phố giữ được an ninh, trật tự, khiến mỗi cá nhân và gia đình yên tâm lao động, sản xuất, làm ăn hiệu quả hơn, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói nghèo, xây dựng địa phương ngày càng giàu mạnh, văn minh. Công tác hòa giải ở cơ sở cũng thể hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thông qua đó nhân dân, xã hội trực tiếp tham gia quản lý mọi mặt đời sống xã hội.
“Công tác hòa giải ở cơ sở đã giải quyết kịp thời, dứt điểm những tranh chấp, bất đồng mới phát sinh tại cơ sở, không để tranh chấp kéo dài, khó xử lý, hạn chế đáng kể tình trạng khiếu kiện ra cơ quan nhà nước, khiếu kiện vượt cấp; góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng khối đoàn kết cộng đồng bền vững, xây dựng khu dân cư văn hóa, sống hòa thuận, hạnh phúc, yên vui, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Thực tế cho thấy, mọi vấn đề đều nảy sinh từ cơ sở và ở đâu làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì ở đó an toàn chính trị, an ninh, trật tự xã hội được giữ vững”, ông Quốc nói.
Theo ông Quốc, hoà giải ở cơ sở là một công cụ hữu hiệu trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam. Tuy vậy, các biện pháp giải quyết tranh chấp dễ tiếp cận, nhanh chóng và tiết kiệm chi phí như hoà giải ở cơ sở cũng cần bảo đảm được quyền con người.
Ông Nicholas Booth, Cố vấn chương trình Tiếp cận Công lý và Quyền con người của UNDP thì nhấn mạnh: “Hoà giải viên ở cơ sở cần tham gia nhiều tập huấn về pháp luật và họ cần đảm bảo được quyền của các nhóm yếu thế được bảo vệ, ví dụ như người trải qua bạo lực gia đình. Phụ nữ không nên bị ép tham gia hoà giải với những người chồng có hành vi bạo lực vì áp lực xã hội hoặc vì họ không tìm được các giải pháp hỗ trợ khác. Buổi hội thảo hôm nay là một cơ hội tuyệt vời để bàn thảo những bước tiếp theo trong việc đẩy mạnh hoà giải ở cơ sở, đảm bảo quyền tiếp cận công lý cho mọi người”.
Theo Bộ Tư pháp, ở Việt Nam, hoà giải ở cơ sở là hình thức giải quyết tranh chấp ngoài toà án phổ biến nhất. Hoà giải ở cơ sở thường được sử dụng để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các mối quan hệ gia đình, dân sự hoặc ở trong cộng đồng địa phương. Hình thức này được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam.
Trong khi đó, báo cáo năm 2018 của Chỉ số Hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) và kết quả khảo sát thực địa cho thấy có 45% đến 50% số người được khảo sát sẽ không đến toà án để giải quyết các mâu thuẫn dân sự, thay vào đó, họ sẽ nhờ tổ hòa giải ở cơ sở để tiến hành hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp của họ.
Trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, các tổ hoà giải ở cơ sở trên cả nước đã tiến hành hòa giải 760.755 vụ việc, trong đó hòa giải thành 612.807 vụ việc, đạt tỷ lệ 80,6%. Hòa giải không thành 147.948 vụ việc, chiếm tỷ lệ 19,4%.
Có 79,5% người dân tham gia trong nghiên cứu tại 3 địa phương khảo sát hoàn toàn tin tưởng và rất tin tưởng vào vai trò, giá trị và tác động của hòa giải ở cơ sở. Tuy nhiên hiện nay, hòa giải viên ở cơ sở còn thiếu tính chuyên nghiệp, kiến thức pháp luật còn hạn chế, kỹ năng hòa giải chưa cao; chỉ có 37,1% ý kiến người dân đánh giá hòa giải viên am hiểu pháp luật, hiểu vụ việc. 65%- 73% người dân được hỏi đã đánh giá hòa giải viên là nhiệt tình, hòa nhã, có trách nhiệm, có uy tín.