Trong những năm qua, các bài kiểm tra chỉ số thông minh hay còn gọi là bài kiểm tra IQ được coi là một cách để định lượng năng lực trí tuệ của một người.
Nói chung có rất nhiều ý kiến cho rằng chỉ số IQ của một người càng cao thì họ càng thông minh. Đương nhiên, điều này đã làm dấy lên những cuộc tranh luận về việc ai là người có chỉ số IQ cao nhất thế giới - và liệu cá nhân đó có nên được coi là người thông minh nhất thế giới hay không.
Tên của nhà vật lý nổi tiếng Albert Einstein thường xuất hiện trong các cuộc trò chuyện như thế này. Ông có chỉ số IQ ước tính là 160, nhưng đó không phải là chỉ số IQ cao nhất từng được ghi nhận.
Tất nhiên, các bài kiểm tra IQ vẫn có những hạn chế và nhiều người đã đặt câu hỏi liệu chúng có nên được sử dụng để xác định trí tuệ của một người hay không. Ngoài ra, còn có một lịch sử đen tối đằng sau một số bài kiểm tra IQ, vì trước đây chúng đã được sử dụng để phân biệt đối xử với những người thuộc các nhóm chủng tộc và dân tộc nhất định.
Hơn nữa, cả độ tin cậy và hiệu quả của các bài kiểm tra IQ cũng thường xuyên bị nghi ngờ. Một số chuyên gia đã gợi ý rằng chúng có thể không phải là chỉ báo về trí thông minh mà là chỉ báo về mức độ động lực, chất lượng học tập, tình trạng sức khỏe và các yếu tố khác của một người.
Vào cuối những năm 1800 và đầu những năm 1900, cộng đồng khoa học rất quan tâm đến nghiên cứu về trí thông minh. Các công trình ban đầu về chủ đề này đã được xuất bản bởi Sir Francis Galton, người sáng lập tâm lý học khác biệt, người tin rằng trí thông minh là di truyền và có thể được xác định bằng cách quan sát cách một người thực hiện các nhiệm vụ tương tác.
Theo Verywell Mind, những nhiệm vụ này liên quan đến việc bộ não con người nhận một thông điệp, sau đó tạo ra phản hồi (chẳng hạn như chạy chậm lại sau khi bạn thấy ai đó trước mặt mình chậm lại).
Vào khoảng thời gian chuyển giao thế kỷ, một nhà tâm lý học người Pháp tên là Alfred Binet đã bị cuốn hút bởi công trình nghiên cứu của Galton. Ông cũng bắt đầu nghiên cứu phát triển các bài kiểm tra để đo lường trí thông minh, được đưa vào sử dụng rộng rãi vào năm 1904 khi chính phủ Pháp muốn xác định đứa trẻ nào sẽ gặp khó khăn trong việc học tập ở trường.
Binet và đồng nghiệp Theodore Simon sau đó đã tạo ra một bài kiểm tra bao gồm một loạt câu hỏi tập trung vào các kỹ năng như chú ý và giải quyết vấn đề - không nhất thiết là những kỹ năng được dạy trong lớp học, mà là những kỹ năng có thể ảnh hưởng đến khả năng học tập của trẻ. Bài kiểm tra gồm 30 câu hỏi này được gọi là Thang đo Binet-Simon, bài kiểm tra IQ đầu tiên được công nhận chính thức.
Theo thời gian, Thang đo Binet-Simon đã được cải thiện - đầu tiên là bởi nhà tâm lý học Lewis Terman của Đại học Stanford, người đã chuẩn hóa bài kiểm tra và sử dụng hai thang đo trong bản sửa đổi của mình, thay vì một, để mang lại kết quả chính xác hơn. Ông cũng đã dịch bài kiểm tra sang tiếng Anh vào năm 1916.
Một năm sau, nhà tâm lý học Robert Yerkes đã phát triển hai bài kiểm tra IQ cho quân đội Hoa Kỳ - bài kiểm tra Alpha và Beta. Bài kiểm tra Alpha là bài kiểm tra viết, trong khi bài kiểm tra Beta bao gồm các bức tranh dành cho những tân binh không biết đọc hoặc không thông thạo tiếng Anh. Cả hai bài kiểm tra đều được thiết kế để giúp quân đội xác định những tân binh nào có thể phù hợp với các vai trò cụ thể trong quân đội.
Theo đó, các bài kiểm tra IQ như thế này cũng được sử dụng để sàng lọc những người nhập cư vào Hoa Kỳ trong khoảng thời gian này, điều đó vô tình đã khiến các quan chức chính phủ áp đặt các hạn chế phân biệt đối xử đối với các nhóm được cho là có chỉ số IQ "thấp kém".
Sau đó, vào năm 1955, nhà tâm lý học người Mỹ David Wechsler đã tạo ra một bài kiểm tra trí thông minh mới được gọi là Thang đo trí thông minh dành cho người lớn Wechsler (WAIS). Wechsler tin tưởng mạnh mẽ rằng trí thông minh nên được đo lường bằng cách so sánh điểm số của những người làm bài kiểm tra trong cùng một nhóm tuổi.
Một số sửa đổi đã được thực hiện đối với hệ thống của Wechsler, cuối cùng phát triển thành WAIS-IV, đây là tiêu chuẩn hiện đại để kiểm tra trí thông minh. Sử dụng tiêu chuẩn này, điểm trung bình được cố định ở mức 100, với hai phần ba số người dự thi đạt điểm ở đâu đó trong phạm vi bình thường từ 85 đến 115.
Về lý thuyết, điểm của một người càng cao thì họ càng thông minh.
Ngay cả với việc tiêu chuẩn hóa các bài kiểm tra IQ và nhiều sửa đổi được thực hiện theo thời gian, việc xác định chỉ số IQ cao nhất từ trước đến nay vẫn không hề đơn giản. Tất nhiên, có những người có điểm số rất cao, nhưng thật đáng ngạc nhiên, một số người thông minh nhất thế giới lại có điểm số IQ thấp hơn nhiều so với những gì bạn có thể mong đợi.
Ví dụ, Albert Einstein được nhiều người coi là một trong những bộ óc lỗi lạc nhất trong lịch sử, tuy nhiên chỉ số IQ của ông chỉ được ước tính vào khoảng 160 - vẫn cao hơn nhiều so với mức trung bình, nhưng không phải là một trong những người có chỉ số IQ cao nhất thế giới. Và chỉ số IQ của Stephen Hawking cũng được ước tính là con số tương tự.
Nhưng từ quan điểm thống kê thuần túy, điểm số ước tính của Einstein và Hawking khá thấp khi so với điểm số của William James Sidis và Marilyn vos Savant. Sidis là một thần đồng với chỉ số IQ ước tính trong khoảng từ 250 đến 300; IQ của Savant đã được ghi nhận là 228.
Nhưng các bài kiểm tra IQ không phải là thước đo trí thông minh hoàn hảo. Các nhà phê bình thường gọi các bài kiểm tra này là "có lỗi cơ bản" và nhiều cuộc thảo luận cũng đặt ra câu hỏi chính xác thì việc trở thành một trong những người thông minh nhất thế giới có nghĩa là gì.
Như một báo cáo từ The Independent giải thích, một nghiên cứu năm 2012 cho thấy các bài kiểm tra IQ không thể hiện chính xác bản chất phức tạp của trí tuệ con người.
Roger Highfield, giám đốc đối ngoại của tổ chức nghiên cứu tại Bảo tàng Khoa học ở Luân Đôn cho biết: “Các kết quả đã bác bỏ hoàn toàn ý kiến cho rằng chỉ một phép đo trí thông minh, chẳng hạn như IQ, là đủ để nắm bắt tất cả sự khác biệt về khả năng nhận thức mà chúng ta thấy giữa con người với nhau”.
Các nhà nghiên cứu đã phân tích một mẫu gồm 46.000 cá nhân từ khắp nơi trên thế giới đã điền vào một cuộc khảo sát trực tuyến, nơi họ được yêu cầu hoàn thành 12 bài kiểm tra tinh thần để đo lường các khía cạnh khác nhau trong khả năng nhận thức của họ.
Cuối cùng, họ xác định rằng không có thước đo trí thông minh đơn lẻ nào có thể đại diện cho các biến thể được thấy giữa ba thành phần riêng biệt của khả năng nhận thức: trí nhớ ngắn hạn, phán đoán và giải quyết vấn đề.
Điều này có nghĩa là các bài kiểm tra IQ hoàn toàn vô dụng? Điều này không hẳn đúng. Nhưng chúng không nên được sử dụng một mình để xác định đâu là một người thông minh hay ai là người nhất trên thế giới.
Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn