Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu tên thật là Tống Thị Lan, là vợ đầu tiên của vua Gia Long triều Nguyễn. Bà có tên tự là Liên, sinh năm Tân Tỵ (1861) ở Tống Sơn, Thanh Hóa và là con gái thứ ba của Qui Quốc công Tống Phúc Khuông và bà mẹ họ Lê.
Năm 1774, khi Phú Xuân bị quân Trịnh đánh chiếm, nàng Tống Thị Lan theo cha vào Nam, đến ở Gia Định. Năm Mậu Tuất (1778), bà 18 tuổi, được tiến cung rồi tấn phong làm Nguyên Phi của vua Nguyễn Ánh.
Thừa Thiên Cao hoàng hậu được biết đến là người phụ nữ hết mực nhân hậu, cần kiệm, biết thương yêu tất cả mọi người. Từ khi trở thành Nguyên phi của Nguyễn Phúc Ánh, bà đã bao phen gian nan bôn tẩu khắp đó đây.
Năm Quý Mão (1783), vì bị Tây Sơn truy đuổi gắt gao, binh mã bị tiêu diệt gần hết nên Nguyễn Phúc Ánh đã sang cầu cứu quân Xiêm La, đồng thời, cậy nhờ Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp xin thêm ngoại viện. Trọng trách phụng dưỡng mẹ già và trông coi mọi việc trong gia thất suốt thời phiêu bạt, Nguyễn Phúc Ánh ủy thác hết cho bà.
Đó là thời kì đen tối nhất, ngày đoàn tụ chẳng biết có hay không, bởi vậy mà khi chia tay, Nguyễn Phúc Ánh đã lấy một nén vàng tốt, chặt ra làm hai, trao cho bà một nửa, còn mình thì giữ một nửa, và nói: “Con ta đi rồi và ta cũng sẽ đi đây. Phi hãy phụng dưỡng Quốc Mẫu (tức bà Hiếu Khang Hoàng thái hậu, con gái của Diễn Quốc công Nguyễn Phúc Trung, người quê ở Minh Linh, nay thuộc Quảng Trị, mẹ của Nguyễn Phúc Ánh). Ngày gặp lại cũng chẳng biết là vào lúc nào và ở đâu, bởi vậy, Phi hãy lấy nửa nén vàng tốt này làm của tin”.
Trong những ngày Nguyễn Ánh ngược xuôi đi cầu viện, đánh rồi lại thua, thua rồi lại đánh… lưu lạc hết Xiêm đến Việt, khi Việt cùng đường lại chạy sang Xiêm, bà Nguyên Phi vẫn một mình hết lòng hầu hạ mẹ chồng. Nhiều lúc tính mạng hiểm nguy ngàn cân treo sợi tóc, bà vẫn bình tĩnh vượt qua.
Bên cạnh đó, bà Nguyên Phi còn thân hành may dệt nhung phục cho quân binh. Cũng có lần quân Nguyễn giáp trận với quân Tây Sơn, thế đối phương mạnh hơn, quân Nguyễn núng thế. Thấy vậy, bà đã tự tay nổi trống thúc quân làm cho binh lính Nguyễn hăng hái xông lên và cuối cùng đã thắng lợi…
Khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại được thành Gia Định liền cho người đón mẹ và vợ về. Từ đây, bà luôn đi theo ông để chăm lo mọi việc.
Chính vì đức hạnh của bà mà năm 1793, Nguyễn Phúc Ánh đề nghị bà làm mẹ nuôi cho hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm (vua Minh Mạng) dù mẹ đẻ của hoàng tử là bà phi Trần Thị Đang (Thuận Thiên Cao hoàng hậu) còn đang khỏe mạnh. Bà bằng lòng với điều kiện chồng phải viết giao ước. Nguyễn Phúc Ánh đồng ý, từ đó hoàng tử Đảm về ở hẳn với bà.
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lật đổ hoàn toàn nhà Tây Sơn, lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long. Sau đó một năm, bà được lập làm vương hậu và năm 1806 thì được phong làm hoàng hậu.
Sau ngày triều Nguyễn được thành lập, vua Gia Long hỏi bà chuyện thỏi vàng năm xưa… Bà ung dung đem vàng ra trình lên. Gia Long vô cùng cảm động, cầm lấy nửa thỏi vàng và bảo rằng: “Vàng này mà còn giữ được, đó thật là ân trời đã giúp cho trong lúc gian nan, chẳng nên quên lãng. Vậy phải để dành về sau cho con cháu biết”. Dứt lời, vua lấy nửa thỏi vàng của mình ráp với nửa thoi vàng của bà Nguyên Phi (lúc đó đã được phong hoàng hậu) rồi trao hết cho bà. Hoàng hậu vâng theo lời dụ, về sau trao lại cho vua Minh Mạng. Sau này, khi Minh Mạng lên ngôi, ông liền đem thoi vàng hai mảnh ấy thờ ở Điện Phụng Tiên.
Vua có hơn trăm phi tần nhưng chỉ lập duy nhất ngôi hậu cho bà. Tiếc rằng hưởng phúc không được bao lâu thì hoàng hậu qua đời năm 1814, thọ 53 tuổi. Vua Gia Long thương tiếc nên khóc lóc rất thảm thiết, để tang bà một năm theo lễ. Hoàng hậu được hiệp táng ngay sát cạnh mộ vua Gia Long trong khuôn viên Thiên Thọ lăng. Đây là lăng tẩm duy nhất của nhà Nguyễn có mộ vua và hoàng hậu đặt song song nhau.
Thừa Thiên Cao hoàng hậu sinh được hai người con trai nhưng đều mất sớm, trước khi vua Gia Long đoạt được sơn hà. Cuộc đời hoàng hậu đầu tiên của triều Nguyễn gặp nhiều trắc trở, con cháu bà dù thuộc dòng đích (con cả) của vua Gia Long nhưng cũng chịu đắng cay không kém, trầm luân trong cuộc củng cố vương quyền dưới thời Minh Mạng khi kẻ chết, người bị giáng làm thường dân.
Chính sử đánh giá Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu là bậc mẫu nghi trong thiên hạ, đúng với câu được ghi trong văn sách lập làm Hoàng hậu: Hòa dịu cần kiệm tỏ đức hay, làm khuôn mẫu cho mọi gia đình. Đem phong hóa quan thư khiến Tu, Tề, Trị, Bình được trông cậy.