Quyền định đoạt tài sản chung của vợ, chồng

14:37 | 09/04/2018;
Chúng tôi lấy nhau được gần 10 năm, có một số tài sản chung như xe ô tô, nhà cửa, đất đai… Tuy nhiên, những tài sản ấy đều đứng tên chồng tôi và anh ấy đã tự ý bán đi một số tài sản trong đó. Vậy tài sản đều đứng tên chồng, phải làm sao?
Hỏi: Vợ chồng tôi lấy nhau được gần 10 năm, có một số tài sản chung như xe ô tô, nhà cửa, đất đai… Tuy nhiên, những tài sản ấy đều đứng tên chồng tôi và anh ấy đã tự ý bán đi một số tài sản trong đó. Đề nghị Báo PNVN cho biết, pháp luật hiện hành quy định thế nào về việc đăng ký, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung của vợ chồng?

                                                                                                  Vũ Thị Phương Dung (Kon Tum)
 
anh67.jpg
Ảnh minh họa

Trả lời: Theo quy định tại Điều 12, Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều của Luật Hôn nhân & Gia đình 2014 về đăng  ký tài sản chung của vợ chồng, thì:

1. Tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký theo quy định tại Điều 34 của Luật Hôn nhân & Gia đình bao gồm quyền sử dụng đất, những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu.

2. Đối với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi tên của cả vợ và chồng.

3. Trong trường hợp tài sản chung được chia trong thời kỳ hôn nhân mà trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên cả vợ và chồng thì bên được chia phần tài sản bằng hiện vật có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài sản cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở văn bản thỏa thuận của vợ chồng hoặc quyết định của Tòa án về chia tài sản chung.

Về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng, Điều 13 Nghị định này quy định:

1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân & Gia đình (Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây: a) Bất động sản; b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình).

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng định đoạt tài sản chung vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân & Gia đình thì bên kia có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu.

Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn