Sinh con thứ 3, thứ 4 vi phạm chính sách dân số vẫn có thể được kết nạp Đảng

15:17 | 12/09/2018;
Ban Bí thư vừa ban hành quy định hướng dẫn việc kết nạp người vi phạm chính sách dân số vào Đảng, trong đó nêu cụ thể việc xem xét kết nạp Đảng với người sinh con thứ 3, thứ 4.

Theo Quy định số 05-QĐi/TW ngày 28/8/2018 của Ban Bí thư, quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình có nguyện vọng phấn đấu vào Đảng chỉ được xem xét, kết nạp vào Đảng khi:

Có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của Trung ương và yêu cầu thực tế của công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị;

Là người có uy tín trong cơ quan, đơn vị, cộng đồng dân cư, được cấp uỷ nơi công tác và nơi cư trú, các tổ chức đoàn thể mà mình là thành viên đánh giá cao về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, về ý thức trách nhiệm đối với nhân dân;

Phải có thời gian phấn đấu ít nhất là 24 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ 3 hoặc 36 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ 4 kể từ ngày sinh con đến ngày chi bộ họp xét đề nghị kết nạp vào Đảng.

Ban Bí thư cũng quy định việc kết nạp quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vào Đảng do ban thường vụ cấp uỷ huyện (hoặc tương đương) xem xét, quyết định.

Như vậy, theo tinh thần của Quy định 05 thì trường hợp sinh con thứ 5 sẽ không thuộc diện xem xét, kết nạp Đảng.

Quy định 05-QĐi/TW có hiệu lực kể từ ngày ký và thay thế Quy định 173-QĐ/TW ngày 11/3/2013.

sinh-con-thu-3-1.jpg
Cộng tác viên dân số (áo trắng) tuyên truyền về chăm sóc sức khỏe sinh sản tại hộ gia đình ở thôn Lũng Hảy (xã Vân Trình, huyện Hòa An, Cao Bằng). Ảnh: T.H

 

Quy định 05 cũng nêu rõ các trường hợp sinh con không bị coi là vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, gồm:

1-Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân (tỉ lệ nhỏ hơn hoặc bằng tỉ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

2-Cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.

3-Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên.

4-Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.

5-Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận.

6-Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ):

Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ).

Sinh một con hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ). Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống.

1_93.jpg
Ảnh minh họa

 

7-Phụ nữ chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh.

8-Sinh con thứ ba trở lên trước ngày 19/01/1989 (ngày có hiệu lực thi hành Quyết định số 162-HĐBT, ngày 18/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về một số chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình).

9-Trường hợp sinh con thứ ba do mang thai ngoài ý muốn, nếu thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người mẹ (có xác nhận của bệnh viện cấp huyện và tương đương trở lên).

Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn