Như bạn có thể đoán, tuyết bao gồm các tinh thể băng được kết tinh một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, yếu tố chính cấu thành thể tích tổng thể của tuyết lại là không khí. Điều này là do khoảng không khí đáng kể bao quanh từng tinh thể nhỏ này trong lớp tuyết.
Tuyết còn hấp thụ thêm các chất khác khi tiếp xúc. Trong mùa đông, tuyết biến thành môi trường có khả năng hấp thụ cao đối với nhiều chất ô nhiễm khác nhau, bao gồm các hạt vật chất từ khí thải xe cộ, các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP), kim loại vi lượng và clorua có nguồn gốc từ muối được rắc trên đường.
Hơn nữa, bên trong lớp băng tuyết, các chất gây ô nhiễm không khí có khả năng trải qua những thay đổi hóa học, dẫn đến việc tạo ra các chất ô nhiễm bổ sung có độc tính và đặc tính gây ung thư khác nhau. Thuốc trừ sâu thất lạc lâu ngày cũng có thể xuất hiện trong tuyết ở một số nơi, đặc biệt là ở khu vực thành thị và ngoại ô.
Quá trình rắc muối lên đường bộ và đường sắt, mặc dù có hiệu quả làm tan chảy tuyết, nhưng cũng gây ra tác hại cho môi trường và làm ô nhiễm tuyết hơn nữa khi muối phân hủy thành ion clorua.
Các chất ô nhiễm vi sinh vật trong tuyết là mối đe dọa rõ ràng. Trong khi hầu hết vi khuẩn và vi rút sống sót trong tuyết đều vô hại thì mầm bệnh từ phân động vật được chứng minh là gây tiêu chảy. Nó cũng có thể gây ra các vấn đề sức khỏe lâu dài, bao gồm cả sự chậm phát triển ở trẻ em.
Sau đó là nguy cơ tiếp xúc với vật chất dạng hạt (PM). Các nhà nghiên cứu đã chứng minh sự gia tăng rõ rệt nồng độ benzen, toluene, ethylbenzen và xylene trong tuyết chỉ sau một giờ tiếp xúc với khói thải trong buồng kín.
Nhiều nghiên cứu luôn nhấn mạnh mối liên hệ giữa PM và các ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, khám phá cả việc phơi nhiễm PM ngắn hạn và dài hạn.
Việc tiếp xúc với benzen có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn, đặc biệt là bệnh bạch cầu và các bệnh ung thư tế bào máu khác. Các hóa chất khác có thể dẫn đến các triệu chứng như kích ứng mắt và mũi, mệt mỏi, lú lẫn, chóng mặt và đau đầu.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh là tuyết chứa các hóa chất này ở nồng độ thấp. Thời gian tuyết rơi tương quan với việc giảm mức độ ô nhiễm không khí và tuyết. Ngay cả khi thu thập tuyết khi bắt đầu có gió lớn, chất gây ô nhiễm trong tuyết vẫn ở dưới mức độc hại rất nhiều.
Nhưng sự hiện diện của các chất ô nhiễm như sunfat, thủy ngân và DDT (Dichloro-Diphenyl-Trichloroethane là một chất hữu cơ cao phân tử tổng hợp), mặc dù ở mức độ thấp, là một số lý do khiến việc ăn tuyết lại nguy hiểm.
Ý tưởng dùng tuyết để ngăn chặn tình trạng mất nước trong những tình huống khắc nghiệt đã thu hút mọi người trong nhiều thập kỷ. Những người đi bộ đường dài thường xuyên được hướng dẫn viên cảnh báo không nên dựa vào tuyết để lấy nước và sinh tồn.
Tuyết bao gồm khoảng 90-95% không khí theo thể tích. Để có được lượng tương đương với một cốc nước, một người cần phải ăn tuyết với thể tích lớn hơn gấp mười lần. Tuy nhiên, một thách thức sâu sắc hơn đang xuất hiện. Ăn tuyết đòi hỏi một lượng năng lượng đáng kể từ cơ thể bị mất nước.
Nguyên nhân nằm ở sự chênh lệch nhiệt độ đáng kể giữa tuyết và nhiệt độ tự nhiên của cơ thể con người. Cơ thể phải sử dụng năng lượng để làm tan tuyết và nâng nó lên nhiệt độ có thể tiêu thụ được. Quá trình này cũng đòi hỏi phải rút nước từ cơ thể đã bị mất nước.
Và điều này đã dẫn đến một nghịch lý, toàn bộ quá trình biến đổi hóa học khiến bạn bị giảm năng lượng và lượng nước nhận được ở từ lượng tuyết ăn vào còn thấp hơn lượng nước mà cơ thể mất đi để tiêu thụ tuyết.
Từ đó có thể thấy rằng việc dựa vào tuyết để lấy nước trong trường hợp khẩn cấp là không thực tế. Trong những tình huống như vậy, cách tiếp cận hiệu quả hơn là cố gắng làm ấm tuyết, làm tan chảy tuyết bằng cách phơi dưới ánh nắng Mặt Trời trong một thùng chứa riêng biệt hoặc đốt lửa nếu khả thi. Điều này không chỉ giảm thiểu sự căng thẳng về thể chất cho cơ thể của bạn mà còn tỏ ra có lợi.
Vì vậy, nhìn chung, ăn tuyết là nguy hiểm, dù là để giải trí hay để sinh tồn.
Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn