Chuyện về cô gái ngồi tựa gốc lan
Ỷ Lan tên thật là Lê Thị Yến (cũng có sách ghi là Lê Thị Yến Loan hay Lê Thị Khiết), là một cô gái hái dâu, chăn tằm ở làng Thổ Lỗi, ngoại thành Thăng Long thời Lý (nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội).
Theo truyền thuyết, Ỷ Lan sinh ngày 7 tháng 3 năm Giáp Thân (1044), lúc lên 10 tuổi thì mẹ mất, bố lấy vợ kế nhưng ít lâu sau cũng qua đời. Ỷ Lan là một cô gái rất xinh đẹp và chăm làm.
Tượng Hoàng thái hậu Ỷ Lan ở chùa Linh Nhân Từ Phúc Tự tại Gia Lâm, Hà Nội. |
Sử cũ chép rằng, bấy giờ Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối ngôi, lòng lấy làm lo lắng, bèn đi cầu tự ở khắp nơi. Mùa xuân năm 1063, vua Lý Thánh Tông đi cầu tự ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Khi đi qua hương Thổ Lỗi, ngài vén rèm nhìn ra, thấy dân làng nô nức đến xem, quỳ lạy từ xa, riêng có người con gái 19 tuổi vẫn thản nhiên hái dâu bên cạnh gốc lan cất tiếng hát trong trẻo:
Tay cầm bán nguyệt xênh xang,
Một trăm ngọn cỏ lai hàng tay ta.
Lý Thánh Tông lấy làm lạ, sai quân lính đưa cô đến trước xe hỏi chuyện. Vua hỏi vì sao không nghênh giá, nàng trả lời: "Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm lụng đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng cha mẹ, đâu có dám mong đi xem rước mà nhìn mặt rồng". Thấy cô gái bội phần xinh đẹp, lại đối đáp lưu loát, thông minh dịu dàng, vua liền truyền đưa về kinh thành Thăng Long, phong làm Ỷ Lan phu nhân (chữ "ỷ lan" nghĩa là tựa gốc cây lan).
Vua cho xây dựng một cung điện riêng (nay là đình Yên Thái, phường Hàng Gai, Hà Nội) đặt tên là cung Ỷ Lan.
Vào cung, bà không lấy việc chau chuốt nhan sắc để chiếm cảm tình của vua mà chỉ khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách nên chỉ trong một thời gian ngắn, Ỷ Lan đã trở thành một cung phi “nổi danh tài sắc một thời”, kinh sử làu thông, văn chương uyên bác được triều thần bái phục.
Năm 1066, Ỷ Lan sinh hạ hoàng tử Càn Đức (sau là vua Lý Nhân Tông, 1072-1127). Ỷ Lan phu nhân được phong làm Nguyên phi, đứng đầu các cung tần phi nữ, chỉ sau Thái hậu. Con trai Lý Càn Đức của bà được lập làm Thái tử. Nhà vua vì đặc biệt quý Nguyên phi Ỷ Lan, vào năm 1068 đã cho đổi gọi nguyên quán của Ỷ Lan là làng Thổ Lỗi thành làng Siêu Loại (nghĩa là vượt lên trên đồng loại). Địa vị của Ỷ Lan trong hoàng tộc càng trở nên vững vàng.
Hai lần buông rèm nhiếp chính
Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông thân chinh cùng Lý Thường Kiệt đi đánh Chiêm Thành, đã tin cẩn trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan mà không phải cho Hoàng hậu Thượng Dương hay Tể tướng Lý Đạo Thành.
Nguyên phi ở lại chăm lo quốc sự, xử lý mọi việc trong triều ngoài xã hết sức đảm đang, được lòng dân chúng. Cũng trong năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Thử thách quá lớn đối với vị nữ nhiếp chính còn rất trẻ. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống.
Lúc bấy giờ, vua ở ngoài biên cương đánh giặc lâu không thắng bèn giao binh quyền cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Dọc đường đến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hưng Yên) nhà vua nghe quan lại và dân ca ngợi Nguyên phi có tài trị nước, còn gọi bà bà Quan Âm, lòng lấy làm xấu hổ mà nói: "Nguyên phi là đàn bà mà còn làm được như thế, ta là nam nhi mà chẳng làm được gì hay sao?". Nói rồi quyết chí cho quân quay lại đánh tiếp và thắng trận giòn giã, lấy được đất 3 châu: Địa Lý, Ma Tinh, Bố Chính (tức vùng Quảng Bình, Quảng Trị). Mùa hạ năm đó, nhà vua trở về với ca khúc khải hoàn, ân xá tội phạm, giảm thuế, và ban phát lúa thóc cho dân chúng.
Năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông lâm bệnh nặng rồi qua đời. Thái tử Lý Càn Đức lúc này mới 6 tuổi lên nối ngôi, lấy hiệu là Lý Nhân Tông. Do vua còn quá nhỏ, mọi việc trong triều cần người giúp vua cáng đáng. Hoàng thái hậu Thượng Dương, được sự ủng hộ của Thái sư Lý Đạo Thành lên nắm quyền. Triều đình lúc này không tránh khỏi rối ren. Về sau, nhờ có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới chính thức lên ngôi Hoàng thái hậu, thay vua nhiếp chính. Ỷ Lan đã thi hành những biện pháp dựng nước, yên dân, khiến cho thế nước và sức dân mạnh hẳn lên. bà không những sửa sang việc quốc chính, tăng cường quân đội – quốc phòng, chăm lo việc mở mang dân trí, thi cử học hành mà còn ban hành nhiều điều ích quốc lợi dân. Nước Đại Việt lại khởi sắc, nhanh chóng thịnh cường. Nhờ vậy, bà đã 2 lần giữ vững giang sơn trước sự tấn công của quân Tống (năm 1075 và 1077).
Ở địa vị tột đỉnh của hiển vinh nhưng Ỷ Lan vẫn không quên cảnh ngộ của những người phụ nữ nghèo hèn. Sách sử chép rằng, vào năm Quý Mùi (1103), Ỷ Lan đã phát tiền ở kho nội phủ để chuộc con gái nhà nghèo bị bán do ở đợ, đem họ mà gả cho những người đàn ông góa vợ. Về già, Ỷ Lan để tâm làm việc thiện, xây chùa và nghiên cứu về đạo Phật.
Đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan. |
Nguyên phi Ỷ Lan qua đời vào ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu (1117), được đặt tên thụy là Phù thánh Linh Nhân hoàng thái hậu. Đương thời, cảm ơn đức cao dày của bà, nhân dân đã tôn vinh bà Ỷ Lan là "Quan âm nữ".
Quần thể khu di tích Ỷ Lan có chùa, đền, điện, sơn trang thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thuộc thành phố Hà Nội. Chùa và đền thờ nguyên phi Ỷ Lan còn có tên gọi chùa "bà Tấm", đền "bà Tấm", chùa Cả, đền Cả.
Chùa có tên "Linh Nhân Tư phúc Tự" do chính Linh Nhân hoàng thái hậu Ỷ Lan xây dựng, nhiều ngôi chùa khác khánh thành vào tháng 3 năm Ất Mùi (1115).
Hàng năm, nơi đây có hai kỳ lễ hội lớn được tổ chức vào 20 tháng 2 âm lịch và ngày 25 tháng 7 âm lịch.
Hội tháng 2 là hội chính, hội 25 tháng 7 tương truyền là ngày giỗ của Ỷ Lan, và là ngày bà làm lễ giải oan cho hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ bị chết oan.
Di tích đền Ghềnh ở xã Như Quỳnh, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên cũng là nơi thờ tượng bà Ỷ Lan. Nơi đây, hàng năm tổ chức lễ hội tưởng niệm bà hai lần, từ mồng 5 đến 16 tháng 3 âm lịch mừng ngày sinh và 25 tháng 7 là ngày mất của bà.