Giáo sư, Tiến sĩ (GS.TS) Phạm Hồng Tung, Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển (Đại học Quốc gia Hà Nội), cho biết: "Thầy Phan Huy Lê đã qua đời vào vào 13h6' chiều 23/6 sau 3 tuần nằm viện.
Khi thầy nhập viện, lãnh đạo Bộ Y tế cũng như lãnh đạo Bệnh viện Bạch Mai đã rất quan tâm, mời những giáo sư đầu ngành tập trung chẩn đoán, chữa trị cho thầy. Nhưng do tuổi cao sức yếu, thầy đã không qua khỏi".
GS.TS Phạm Hồng Tung cho biết, đầu tháng 6/2018, dù tuổi cao nhưng Giáo sư Phan Huy Lê vẫn tham gia đoàn ra Trường Sa. Ông là người cao tuổi nhất trong đoàn.
Khi về Hà Nội, sức khỏe của ông vẫn bình thường. Nhưng mấy ngày sau, gia đình thấy ông bị mệt, đưa ông vào Bệnh viện Bạch Mai. Tại đây, các bác sĩ chẩn đoán ông bị bệnh tim và được chỉ định đặt stent để thông mạch.
Tuy nhiên, do tuổi cao sức yếu, trước đó GS Phan Huy Lê đã mắc bệnh cao huyết áp, từng bị tai biến, nên dù được đội ngũ y bác sĩ hết lòng cứu chữa, chiều nay ông đã qua đời.
"Khi đi Trường Sa về ,cụ vui lắm. Lúc nằm trong bệnh viện, cụ vẫn nghĩ mình đang làm việc. Có lần cụ nói với con gái "bố quên tắt máy tính". Cụ vẫn muốn làm việc đến tận giây phút cuối cùng", GS.TS Phạm Hồng Tung chia sẻ.
GS Phan Huy Lê sinh năm 1934 tại làng Thu Hoạch, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Ông là hậu duệ đời thứ 14 của dòng họ Phan Huy vốn nổi danh về khoa bảng với những tên tuổi lớn như Phan Huy Cẩn, Phan Huy Ích, Phan Huy Thực, Phan Huy Vịnh, Phan Huy Chú… Cụ thân sinh ra ông là Phan Huy Tùng, từng làm quan trong triều đình Huế. GS Phan Huy Lê được đánh giá là một trong những chuyên gia nghiên cứu lịch sử hàng đầu của Việt Nam. GS Phan Huy Lê được biết đến là 1 trong tứ trụ huyền thoại "Lâm, Lê, Tấn, Vượng", tức là 4 giáo sư: Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng của khoa Lịch sử, trường ĐH Tổng hợp Hà Nội (nay là trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia Hà Nội). 4 người đều là học trò xuất sắc của GS.NGND Trần Văn Giàu. Ông được phong học hàm Giáo sư năm 1980, Nhà giáo Ưu tú (1988), Nhà giáo Nhân dân (1994); được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì (1985), Huân chương Lao động hạng Nhất (1998), hạng Nhì (1994), hạng Ba (1974); được tặng Giải thưởng Nhà nước (2000), Giải thưởng Quốc tế Văn hoá châu Á Fukuoka, Nhật Bản (1996), Huân chương Cành cọ của chính phủ Pháp (2002); được trao danh hiệu Công dân ưu tú của Thủ đô (2010), danh hiệu Viện sĩ Thông tấn nước ngoài của Học viện Pháp quốc (2011). Ông cũng là người xây dựng Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa, sáng lập khoa Đông phương học của ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội. |