Cách đây 38 năm, các nhân viên của đại sứ quán Mỹ tại Teherran (Iran) bị bắt làm con tin. Vụ chiếm giữ tòa đại sứ Mỹ và bắt cóc con tin này đánh dấu điểm khởi đầu của sự thù hận tiếp diễn đến ngày nay giữa Washington và giới tăng lữ Hồi giáo Teherran.
Ngày đen tối
Từ đầu năm 1979 tại Iran, nổ ra cuộc cách mạng Hồi giáo. Quốc vương Reza Pahlavi bị đuổi khỏi đất nước từ tháng 2 và đã trốn sang Mỹ với hàng tỷ đô la.
Người lên nắm quyền bính là giáo chủ Ajatollah Ruhollah Khomeini. Trong khi Mỹ được coi là bạn của Quốc vương Pahlavi thì lại là kẻ thù số một của với giới tăng lữ Hồi giáo. Ngày nào Iran cũng nổ ra biểu tình chống Mỹ. Giáo chủ Khomeini kêu gọi học sinh, sinh viên tấn công Mỹ và Israel mạnh mẽ hơn, để buộc Mỹ phải giao nộp quốc vương Pahlavi.
Ngày 4/11/1979 khá lạnh, trời mưa nhỏ. Ngay từ sáng sớm, hàng ngàn người tụ tập trước tòa đại sứ Mỹ ở Teheran. Họ đốt cờ Mỹ và hô to "Mỹ cút về nước!". Tuy vậy, sứ quán Mỹ coi đó là điều bình thường, vì trước đó từ vài tuần lễ, vẫn thường xuyên có các cuộc biểu tình trước cơ quan đại diện ngoại giao của Mỹ.
Rồi bất ngờ, một số người trèo qua lớp tường rào vào sứ quán, sau đó qua cổng và tràn vào trong tòa nhà đại sứ. Trong chớp mắt, đã có khoảng 400 thanh niên Iran tràn vào tòa đại sứ.
Họ bắt lính thủy Mỹ và nhân viên sứ quán nhốt vào nhà riêng của đại sứ Mỹ. Đêm đầu tiên, tất cả phải ngủ trên sàn nhà, hai chân bị buộc chặt với nhau và hai tay bị trói vào thành giường hoặc bàn ghế.
Chỉ ít phút sau, khi sinh viên quá khích xâm nhập vào tòa đại sứ, người ta thấy binh lính Iran và lực lượng cận vệ quốc gia cũng tham gia. Sáng hôm sau các cuộc hỏi cung được bắt đầu.
Tin sứ quán Mỹ bị chiếm gây sốc toàn thế giới, vì chiếm đóng cơ quan đại diện ngoại giao là một vi phạm ghê gớm công pháp quốc tế.
Hành hình giả uy hiếp con tin
Trong các con tin, một số sĩ quan hải quân Mỹ bị đánh đập. Tuy nhiên, khủng khiếp nhất là khi người Iran tiến hành những vụ hành hình giả. Giữa tháng 2/1980, con tin bị đánh thức giữa đêm, sau đó bị dẫn ra hành lang và phải cởi hết quần áo ngoài. Họ bị trói và bị bịt mắt. Một sĩ quan chạy đi chạy lại trong hành lang và ra lệnh hành hình bằng tiếng Farsi.
Sau đó, lính canh gí súng vào gáy các con tin và bóp cò. Súng không nạp đạn nhưng thật khủng khiếp, vì các con tin không hề biết điều đó.
Mỹ đưa vụ này ra tòa án quốc tế. Tuy vậy, Iran vẫn nhất quyết đòi Mỹ dẫn độ Quốc vương Pahlavi và trả lại tài sản của quốc vương cho Iran nhưng Tổng thống Carter không chấp nhận.
Một lính hải quân là con tin sau này kể lại: "Tôi rất thất vọng, vì việc giải quyết kéo dài quá mức. Trong những tuần đầu tiên, chúng tôi bị cấm nói chuyện với nhau. Ai bị phát hiện, lập tức bị biệt giam 2 ngày. Tuần nào chúng tôi cũng nghĩ sẽ bị hành hình. Áp lực đó và nỗi sợ hãi túc trực đã thúc đẩy tôi và hai người nữa bỏ trốn".
Chiến dịch "Vuốt đại bàng"
2 tuần một lần, con tin được ra một căn nhà bên ngoài để tắm rửa. Từ ngôi nhà đó, 3 con tin định sẽ bỏ trốn để đến tòa đại sứ Anh hoặc Thụy Sĩ. Tuy nhiên, chính 1 lính Mỹ phản bội đã báo cho lính canh Iran. Người này vốn rất có thiện cảm với người Iran. Những con tin âm mưu vượt ngục đều bị bịt mắt và nhốt vào biệt giam trong hơn 1 tháng.
Ngày 7/4/1980, 6 tháng sau khi tòa đại sứ bị chiếm giữ và sau nhiều lần đàm phán không thành, Mỹ lên kế hoạch một chiến dịch đột kích có một không hai để giải cứu con tin ở Teheran. Chiến dịch mang tên "Eagle claw - Vuốt đại bàng" này được Tổng thống Carter duyệt và trực tiếp ra lệnh.
Ngày 25/4/1980, trước khi mặt trời mọc trên vịnh Oman, 8 chiếc máy bay lên thẳng CH-53 cất cánh khỏi tàu sân bay "USS-Nimitz" bay đến sa mạc muối Dascht-e Kawir trên đất Iran. Trước đó, 3 chiếc máy bay vận tải quân sự C-130 chở lính đặc nhiệm Delta Force đổ quân tại đó.
Tiếp đến, các máy bay lên thẳng chở toán quân bay tiếp đến một điểm khác ém đợi. Đêm thứ hai, các máy bay C-130 chở lực lượng đặc nhiệm Ranger đổ bộ xuống một điểm cách sân bay Teheran 50 km và toán này có nhiệm vụ đánh chiếm sân bay, trong khi ấy, lực lượng Delta sẽ giải cứu con tin.
Nếu chiến dịch "Vuốt đại bàng" thành công, nó sẽ đi vào lịch sử thế giới là vụ giải cứu con tin đình đám nhất. Tuy nhiên, chiến dịch này đã gặp những trục trặc lớn ngay từ đầu. Đơn vị đặc nhiệm đã không đến được Teheran. Trên đường bay đến sa mạc muối, một chiếc lên thẳng phải quay về vì gió cát quá mạnh và chiếc thứ hai phải hạ cánh khẩn cấp.
Khi chiếc lên thẳng thứ ba bị loại vì hỏng bộ phận thủy lực, Tổng thống Carter đã ra lệnh hủy chiến dịch. Vẫn chưa hết. Khi cất cánh để rút lui, một chiếc lên thẳng đã đâm phải một máy bay vận tải và cả hai bốc cháy làm 8 lính đặc nhiệm thiệt mạng. Sau thảm họa này, Tổng thống Carter buộc phải đàm phán lại với Iran.
Khởi đầu sự đối nghịch Wahsington - Teheran
Ngày 27/7/1980, Quốc vương Pahlavi chết tại Ai Cập. Đám con tin không còn giá trị đối với giới thủ lĩnh Hồi giáo Iran nữa. Bên cạnh đó, tháng 11, Tổng thống Carter đã phát tín hiệu sẽ không phong tỏa tài sản của Iran nữa, trong trường hợp đạt được một giải pháp.
Ngày 20/1/1981, vụ bắt cóc con tin kéo dài nhất trong lịch sử kết thúc và sau 444 ngày bị giam giữ, 52 cán bộ, nhân viên sứ quán Mỹ tại Teheran được thả – đúng ngày Reagan lên nhậm chức Tổng thống Mỹ tại Nhà Trắng.
Trước đó 1 ngày, đám con tin được báo thu dọn đồ đạc cá nhân và hôm sau được chuyển đến tòa đại sứ Mỹ. Họ bị bịt mắt đẩy lên một chiếc xe bus chạy ra sân bay trong tiếng la hét "Mỹ cút về nước" của hàng ngàn người tụ tập quanh tòa đại sứ. Máy bay chở nhóm con tin đến Algerie phải dừng lại tiếp nhiên liệu rồi bay tiếp đến căn cứ không quân Mỹ ở Wiesbaden (Đức). Tại đấy, cựu Tổng thống Mỹ Carter đã đợi sẵn.
Cho đến nay, nhiều người Mỹ vẫn coi vụ bắt cóc con tin này là biểu tượng của cuộc chiến giữa các nền văn hóa. Nó đánh dấu sự khởi đầu của mối hận thù giữa Washington và giới tăng lữ Hồi giáo Teheran. Đối với Tổng thống Carter, cái giá ông phải trả cho vụ bắt cóc con tin này là ngôi vị Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Chỉ ít lâu sau vụ bắt cóc – tháng 11/1980 – Carter phải rời Nhà Trắng nhường chỗ cho Ronald Reagan.