Xuất bản ngày 10/10/2022
Vàng Thị Mua, quê ở Cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang) đang là sinh viên trường Văn hóa Nghệ thuật Tây Bắc, nói với tôi rằng: "Theo em, từ "Lù Cở" (chiếc gùi) đối với người Mông phải viết hoa, nó là người bạn, vật tuỳ thân với người phụ nữ Mông cả cuộc đời".
Câu nói của Mua cứ ám ảnh tôi trong những chuyến lang bạt Tây Bắc, trong những lần đến với đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang…
Lù Cở gùi măng của những người phụ nữ dân tộc Mông ở huyện Tuần Giáo, Điện Biên (trái); Những bé gái người Mông biết đeo Lù Cở từ khi nhỏ tuổi theo mẹ lên nương (phải)
Cụ bà Mùa Thị Dua (75 tuổi) ở xã Tả Phìn (Đồng Văn, Hà Giang) nói rằng, người Mông sống ở núi, đèo cao dốc đứng, lối bước gập ghềnh nên chẳng thể gánh gồng, vậy là bà con sáng tạo ra Lù Cở.
Chiếc Lù Cở của người Mông có từ bao giờ, khó ai có thể xác định được, chỉ biết rằng, trong cuộc sống lao động của đồng bào Mông vùng Tây Bắc, chiếc Lù Cở là hình ảnh rất đỗi quen thuộc, gắn liền với sự lao động của người phụ nữ.
Vì thế, bất kỳ một bản người Mông nào ở Tây Bắc đều biết đan Lù Cở. Người Mông thường chọn những cây tre không quá non hoặc quá già, lột lấy phần cật ngoài cùng, cạo hết phần xù xì để lộ lớp bóng của bề mặt cật. Nếu cẩn thận, để cho khỏi mọt, người Mông hay ngâm cật tre xuống nước chừng 2-3 tuần sau đó mới vớt lên để đan Lù Cở.
Thông thường, chiếc Lù Cở của đồng bào Mông có miệng tròn, theo hướng tỏa ra, phần thân và đáy hình vuông. Sau khi đan xong, người Mông thường buộc hai sợi dây vải mềm hai bên vừa với vai đeo để khi đeo đồ nặng vai không bị đau nhức. Khi đan, người Mông luôn xoay bề mặt bóng của cật ra phía ngoài để tạo vẻ đẹp cho chiếc Lù Cở.
Chiếc Lù Cở quen đến nỗi như một thứ đồ "trang sức" mỗi khi xuống chợ, lên nương hay ngay cả đi chơi hội mùa Xuân.
Những chiếc Lù Cở chứa thổ cẩm được người phụ nữ dân tộc Mông ở huyện Sa Pa, Lào Cai mang xuống chợ bán cho khách du lịch
Phụ nữ Mông luôn hãnh diện khi đeo chiếc Lù Cở sau lưng. Nếu là người đã có chồng thì chiếc Lù Cở chứng minh cho sự đảm đang, khéo léo, giàu tình yêu thương của họ. Nếu là phụ nữ chưa chồng, chiếc Lù Cở sẽ nói với mọi người rằng, họ rất đảm đang và chung thủy. Chẳng thế mà trước khi phụ nữ Mông về nhà chồng, họ thường đan cho mình một chiếc Lù Cở thật to và đẹp, mang theo quần áo thổ cẩm, trang sức, các vật dụng của cô gái về nhà chồng. Hình ảnh chàng trai Mông cầm khèn, cô gái Mông đeo Lù Cở, cùng dắt ngựa đi dưới rừng mận, rừng đào là những hình ảnh tuyệt đẹp, đầy lãng mạn về tình yêu nơi bản Mông xa xôi.
Lù Cở được người phụ nữ Mông sử dụng trong nhiều công việc hằng ngày. Người lớn, nhỏ, già, trẻ đều có thể đeo gùi sau lưng để làm công việc của mình. Khi lên núi, người phụ nữ Mông đeo theo chiếc gùi đựng hạt giống, nước uống, cơm nắm; khi xuống núi, chiếc gùi đầy ắp những sản phẩm là thành quả lao động như măng rừng, củ quả, rau xanh, những bó lúa trĩu hạt. Khi về đến nhà, chiếc Lù Cở được đặt gọn ở góc nhà hoặc treo trên vách.
Mỗi khi xuống chợ phiên, sau lưng những người phụ nữ Mông không thể thiếu chiếc Lù Cở thân thuộc. Khi ấy, họ gùi sau lưng những sản vật như rau, củ, gạo, gà, vịt, rượu, xôi ngũ sắc, ngô, khoai… để mang xuống chợ bán. Hầu hết các thứ hàng hóa nông nghiệp đều được người phụ nữ Mông đựng trong Lù Cở. Những đứa trẻ còn bé xíu, theo bố mẹ xuống chợ cũng được mẹ đặt ngồi trong chiếc Lù Cở cõng sau lưng.
Nếu bạn lên với bản làng vùng cao Tây Bắc sẽ dễ dàng bắt gặp hình ảnh một vài người phụ nữ gùi củi trong chiếc Lù Cở, gùi rau cỏ nơi núi cao, vách đá cheo leo, hay trên những nẻo đường xuống chợ. Thú vị hơn cả là những em bé được đặt trong Lù Cở theo mẹ xuống chợ, lên nương. Khi phiên chợ tan, chiếc Lù Cở lại chuyên chở cân muối, cân thịt lợn hay cuộn chỉ thêu theo chân người về bản.
Ngoài những hình ảnh đẹp đẽ để tôn vinh sức lao động của người phụ nữ dân tộc Mông thì Lù Cở cũng là vật thể hiện sự nhọc nhằn của người phụ nữ. Chiếc Lù Cở như chứa đựng cả gia đình, sự sống trên lưng người phụ nữ. Chiếc Lù Cở như thẫm đẫm mồ hôi, nước mắt của người phụ nữ Mông trong công cuộc mưu sinh nhọc nhằn trên đá núi.
Thực hiện: Yên Ninh