ThS. BS Nguyễn Văn Tiến - Trung tâm Giáo dục Truyền thông dinh dưỡng - Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho biết, tại Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho người dân như tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm nhanh và bền vững (tỷ lệ SDD thể nhẹ cân giảm từ 30.1% năm 2000 xuống còn 14.1% năm 2015 và năm 2020 tỷ lệ này là 11.5%); chúng ta đã thanh toán được tình trạng mù lòa do thiếu vitamin A; tình trạng thiếu vitamin A huyết thanh, thiếu máu do thiếu sắt và thiếu các VCDD khác ngày càng được cải thiện; kiến thức và thực hành dinh dưỡng đúng của người dân ngày càng được nâng cao.
Mặc dù, tỷ lệ SDD thấp còi giảm 1% một năm (tỷ lệ này hiện nay là 19.6%), nhưng còn tồn tại sự khác biệt và chênh lệch khá lớn giữa các vùng sinh thái, giữa thành thị và nông thôn như: Vùng miền núi 38.0%, nông thôn 14.9% và thành thị 12.4%,… Suy dinh dưỡng thấp còi vẫn tập trung nhiều ở những nơi khó khăn, vùng dân tộc thiểu số: Miền núi phía Bắc 37.4% và Tây nguyên 28.8%; dân tộc kinh 17.1% và dân tộc khác là 32.0%.
Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2020 thì tình trạng thiếu VCDD đã cải thiện rõ rệt ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là bà mẹ và trẻ em.
- Thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 14.2% xuống còn 9.5%, vitamin A trong sữa mẹ thấp đã giảm từ 35.5% xuống còn 18.3%. Đạt được kết quả đó, là do tỷ lệ bao phủ viên nang vitamin A một năm 2 lần cho trẻ em trong độ tuổi được uống là 98,8%. Tỷ lệ bà mẹ sau khi sinh con trong vòng 1 tháng được uống vitamin A là trên 90%.
- Thiếu sắt sẽ dẫn tới thiếu máu, ảnh hưởng đến khả năng lao động và học tập. Thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ, phụ nữ có thai và trẻ em dưới 5 tuổi đều được cải thiện. Năm 2020, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi là 19.6%, phụ nữ là thai là 25.6% và ở phụ nữ tuổi sinh đẻ là 16.2% so với năm 2010 (thì tỷ lệ thiếu máu của các đối tượng trên là 29.2%, 36.5% và 28.8%).
- Tình trạng thiếu kẽm ở phụ nữ có thai và trẻ em dưới 5 tuổi cũng đã được cải thiện rõ rệt: Thiếu kẽm ở phụ nữ có thai đã giảm từ 80.3% năm 2010 xuống còn 63.5% năm 2020, tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 69.4% xuống còn 58.0%.
Phòng chống thiếu VCDD là một cuộc chiến bền bỉ để nâng cao năng lực lao động, phát triển trí tuệ, tầm vóc, sức khỏe và chất lượng cuộc sống.
Chiến lược phòng chống thiếu VCDD cần thực hiện các giải pháp đồng bộ như: Bổ sung VCDD cho các đối tượng có nguy cơ cao là một giải pháp cần thiết để khắc phục nhanh chóng, kịp thời tình trạng thiếu VCDD. Tăng cường VCDD vào thực phẩm là giải pháp trung hạn. Đa dạng hoá bữa ăn là biện pháp cải thiện tình trạng thiếu VCDD một cách lâu dài và bền vững - Bác sĩ Tiến cho biết thêm.
Tăng cường VCDD vào các thực phẩm thiết yếu là biện pháp đơn giản, hiệu quả và dễ đạt độ bao phủ cao, có tính bền vững để giảm sự thiếu hụt các VCDD trong bữa ăn hàng ngày, giúp nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân.
Ngày 1-2/6, cho trẻ trong độ tuổi đi uống vitamin A theo hướng dẫn của trạm y tế xã/ phường.
Để phòng thiếu vi chất dinh dưỡng cần:
1. Ăn đa dạng, phối hợp nhiều loại thực phẩm, lựa chọn các thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng cho bữa ăn hàng ngày.
2. Cho trẻ bú sớm, nuôi trẻ hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu, tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi hoặc lâu hơn cùng với ăn bổ sung hợp lý.
3. Bữa ăn bổ sung của trẻ cần có các thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng, thêm mỡ hoặc dầu để tăng cường hấp thu vitamin A, vitamin D.
4. Cho trẻ trong độ tuổi uống vitamin A liều cao 2 lần/ năm, bà mẹ sau sinh trong vòng một tháng uống một liều vitamin A.
5. Trẻ từ 24 đến 60 tháng tuổi uống thuốc tẩy giun 2 lần/năm. Thực hiện vệ sinh ăn uống, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường phòng chống nhiễm giun.
6. Phụ nữ tuổi sinh đẻ, phụ nữ có thai cần uống viên sắt và axit folic hoặc viên đa vi chất theo hướng dẫn.
Bản quyền thuộc phunuvietnam.vn