3 lĩnh vực cần kiểm soát tình trạng kháng kháng sinh
Ảnh minh họa
Việc kiểm soát kháng kháng sinh cần được tiếp cận một cách toàn diện, đặc biệt trong 3 lĩnh vực: hô hấp, tai mũi họng và nhi khoa - nơi kháng sinh được sử dụng phổ biến nhất.
Đây là chia sẻ của GS.TS.BS. Ngô Quý Châu, Chủ tịch Hội Hô hấp Việt Nam, tại hội thảo khoa học "Đề kháng kháng sinh và chiến lược điều trị nhiễm trùng đa chuyên khoa" vừa được tổ chức.
Kháng kháng sinh (AMR) là một mối đe dọa cấp bách đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu, với nguy cơ gia tăng mạnh mẽ, có thể gây ra ít nhất 10 triệu ca tử vong mỗi năm và đạt mức tương đương tử vong do ung thư kể từ năm 2050 nếu không có hành động kịp thời và hiệu quả. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ngoài gánh nặng tử vong và bệnh tật, AMR còn kéo theo chi phí kinh tế đáng kể.
GS. Đinh Xuân Anh Tuấn, nguyên Hiệu trưởng Đại học Corse, Cộng hòa Pháp, cập nhật, trong năm 2019, cứ 5 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong thì có 1 em tử vong do đề kháng kháng sinh. Hậu quả của việc sử dụng kháng sinh khi không cần thiết là chúng tiêu diệt cả các vi khuẩn có lợi bảo vệ cơ thể, tạo điều kiện cho vi khuẩn đề kháng gia tăng, phát triển và chiếm ưu thế, đồng thời truyền cơ chế kháng thuốc sang các vi khuẩn khác. Lạm dụng kháng sinh đang đẩy nhanh quá trình này, khiến kháng thuốc trở thành một vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, kìm hãm phát triển kinh tế, gia tăng tỷ lệ nghèo đói và tạo ra bất công trong xã hội.
Nguy hại hơn nữa, tình trạng kháng kháng sinh ngày càng gia tăng đang vô hiệu hóa khả năng diệt khuẩn của kháng sinh, làm tăng nguy cơ tử vong do các bệnh nhiễm trùng.

Các chuyên gia tại hội thảo khoa học "Đề kháng kháng sinh và chiến lược điều trị nhiễm trùng đa chuyên khoa" do Hội Hô hấp Việt Nam tổ chức, với sự đồng hành của GSK Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia đang phải đối mặt với mối đe dọa ngày càng gia tăng của tình trạng kháng kháng sinh, bắt nguồn từ việc sử dụng kháng sinh không cần thiết trong các trường hợp không nhiễm khuẩn, hoặc không hợp lý đối với từng loại vi khuẩn trong nhiều năm qua. Đặc biệt trong điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cộng đồng, một số trường hợp buộc phải sử dụng kháng sinh liều cao cho trẻ em.
PGS.TS.BS. Trần Minh Điển, Chủ tịch Hội Nhi khoa Việt Nam, đưa ví dụ: "Theo dữ liệu của Bệnh viện Nhi Trung ương, bệnh hô hấp chiếm tỷ lệ nhập viện cao nhất từ năm 2020 - 2024 và có xu hướng gia tăng mỗi năm. Các vi khuẩn chính gây viêm phổi cộng đồng ở trẻ em tại miền Bắc là Haemophilus Influenzae, phế cầu và Moraxella catarrhalis. Phần lớn các chủng này có tỷ lệ kháng cao với nhóm beta-lactam thông thường và macrolide - những kháng sinh được kê đơn phổ biến hiện nay.
Do đó, theo ông Điển, chiến lược quản lý kháng sinh trong nhi khoa cần dựa trên khung phân loại của WHO, gồm 3 nhóm kháng sinh: nhóm tiếp cận, nhóm theo dõi và nhóm dự trữ, với mục tiêu kê đơn đúng và hợp lý. Bên cạnh tuân thủ chiến lược quản lý và sử dụng kháng sinh, cần thúc đẩy chiến lược chẩn đoán nhằm chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh, giúp chỉ định kháng sinh đúng và đủ, giảm bớt kê đơn kháng sinh với các trường hợp nhiễm virus.
Theo GS.TS.BS. Ngô Quý Châu, để xây dựng chiến lược quản lý nhiễm khuẩn hiệu quả, cần dựa trên dữ liệu vi sinh cập nhật tại các bệnh viện, các nghiên cứu như SOAR (chương trình nghiên cứu giám sát kháng sinh) và khảo sát hành vi sử dụng thuốc. Đồng thời, việc đồng bộ hóa hướng dẫn điều trị và triển khai các chương trình đào tạo cho nhân viên y tế ở mọi cấp là yếu tố then chốt nhằm bảo vệ hiệu quả kháng sinh lâu dài.