Tổng kết 9 năm thi hành Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Ủy ban Dân tộc vừa cho biết: Thời gian qua, chính sách y tế chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện theo hướng ưu tiên giải quyết các vấn đề sức khỏe; tăng cường khả năng tiếp cận cũng như cung cấp dịch vụ y tế có chất lượng; giảm gánh nặng chi phí chăm sóc sức khỏe.
Việc bố trí kinh phí mua thẻ BHYT miễn phí cho đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng, số người có thẻ BHYT tăng lên theo từng năm. Năm 2016, 91% đồng bào dân tộc có thẻ BHYT; năm 2017 là 92,05%. Năm 2018, có tới 93,68% đồng bào dân tộc có thẻ BHYT.
Đồng thời, tạo điều kiện cho đồng bào được khám, chữa bệnh ở tất cả cơ sở y tế trên địa bàn và được Quỹ BHYT chi trả chi phí; nguồn nhân lực khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được đảm bảo về số lượng và chất lượng. Các cơ sở y tế Quân- dân y tích cực khám, chữa bệnh cho nhân dân, tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng Làng Văn hóa sức khỏe, nếp sống vệ sinh khoa học…
93,68% đồng bào dân tộc có thẻ BHYT năm 2018. Ảnh minh họa
Tuy nhiên, công tác y tế, chăm sóc sức khỏe và BHYT cho đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc. Cụ thể, tỷ lệ bác sỹ/1 vạn dân còn thấp, thiếu cán bộ y tế có chuyên môn sâu, cán bộ người địa phương; cơ sở vật chất y tế ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi còn thiếu, chưa đồng bộ.
Theo thống kê, đến tháng 7/2018, mới có 9.821 trạm y tế xã đủ điều kiện khám, chữa bệnh BHYT – đạt trên 80% số trạm). Khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khám, chữa bệnh có chất lượng còn hạn chế, tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số dưới 01 tuổi tử vong còn cao, tỷ lệ phụ nữ mang thai được thăm, khám trong thai kỳ mới đạt 71%, phụ nữ sinh con tại nhà tới 36,3%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số là 32%.
Riêng về BHYT, mặc dù kết quả cấp thẻ BHYT miễn phí đạt tỷ lệ cao, có tới 93,68% đồng bào dân tộc thiểu số có thẻ BHYT vào năm 2018, nhưng số lượt người khám, chữa bệnh, cũng như chất lượng khám, chữa bệnh ở cơ sở vùng dân tộc thiểu số và miền núi chưa thật sự hiệu quả. Tỷ lệ khám, chữa bệnh BHYT ở tuyến xã năm 2018 là 18,5%. Tương ứng với đó, chi khám, chữa bệnh BHYT là 2,6%/năm.
Các cơ sở y tế Quân- dân y tích cực khám, chữa bệnh cho nhân dân
Ủy ban Dân tộc kiến nghị các Bộ, ngành, địa phương quan tâm bố trí kinh phí thực hiện các hoạt động truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp luật, quyền và lợi ích về khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Đồng thời đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Khám, chữa bệnh theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, dịch vụ khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số để người dân được thụ hưởng đầy đủ quyền được khám, chữa bệnh và chính sách theo quy định của Luật BHYT.
Quy định chính sách hỗ trợ bảo tồn, sử dụng các bài thuốc dân gian, phương pháp chữa bệnh cổ truyền có giá trị của các dân tộc thiểu số; đẩy mạnh xã hội hóa, phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khám, chữa bệnh chất lượng cao ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
Tiếp tục tăng cường bác sỹ về công tác tại bệnh viện tuyến huyện, trạm y tế xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ bác sỹ là người dân tộc thiểu số để góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân.
Theo kết quả phân tích số liệu điều tra về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số và miền núi, có 4.113 trạm y tế xã, trong đó, 2.788 trạm được đầu tư xây dựng kiên cố, còn 1.276 trạm bán kiên cố, cá biệt có 49 trạm chất lượng rất kém; có 2.845 trạm y tế xã có bác sỹ (chiếm 69,2%).
Tại 1 số tỉnh có tỷ lệ bác sĩ/trạm y tế rất thấp như Lai Châu 15,9%, Lào Cai 28,6%, Điện Biên 33,9%, Khánh Hòa 23,5%... Trong tổng số 26.557 nhân viên y tế trạm y tế xã thì có 12,3% là bác sỹ, số còn lại là y tá, điều dưỡng, nữ hộ sinh.
|