pnvnonline@phunuvietnam.vn
Các phương pháp hỗ trợ sinh sản hiện đại nhất
1. Sử dụng thuốc hỗ trợ sinh sản cho phụ nữ hiếm muộn
Phụ nữ nếu bị hiếm muộn và khó có thai thì phương pháp hỗ trợ sinh sản đơn giản nhất chính là sử dụng thuốc hỗ trợ sinh sản cho phụ nữ hiếm muộn làm kích thích rụng trứng. Nguyên tắc khi sử dụng phương pháp này là sử dụng thuốc kích rụng trứng đối với trường hợp người vợ bị rối loạn kinh nguyệt và khi người chồng có chất lượng tinh trùng yếu.
Khi sử dụng thuốc kích thích rụng trứng, bác sĩ sẽ tiêm hoặc cho người phụ nữ uống thuốc. Mục đích của việc này là kích thích trứng được sinh ra nhiều hơn. Đồng thời phôi thai bám tốt vào thành tử cung và giúp phát triển an toàn.
Các hoạt động này chủ yếu nhờ vào hormone có tác dụng kiểm soát quá trình rụng trứng. Tỷ lệ thành công của biện pháp từ 40 đến 45% phụ nữ sẽ có thai sau khi sử dụng thuốc một thời gian. Có trên 50% phụ nữ áp dụng phương pháp này như một biện pháp giúp tăng hiệu quả của những phương pháp hỗ trợ sinh sản khác.
Sử dụng thuốc là phương pháp hỗ trợ sinh sản chi phí không cao, giúp làm tăng tỷ lệ thành công của những phương pháp khác. Tuy nhiên, thuốc có gây một số tác dụng phụ như: buồn nôn, chóng mặt, đau đầu và có khả năng gây u nang buồn trứng, làm tăng nguy cơ gây đa thai.
2. Phương pháp thụ tinh nhân tạo
Thụ tinh nhân tạo được thực hiện khi người vợ có tử cung, buồn trứng bình thường và ít nhất có một vòi trứng không bị tắc. Ngoài ra, tinh trùng của người chồng cũng cần đạt chuẩn.
Quá trình thực hiện điều trị bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo sẽ kéo dài từ 10 đến 14 ngày.
Quy trình thụ tinh nhân tạo diễn ra như sau:
- Từ ngày 2 hoặc ngày 3, vòng kinh của người vợ, khi được dùng thuốc kích thích buồng trứng, đến ngày 6 và ngày 7 của vòng kinh, người vợ cần đến siêu âm và đánh giá tình trạng đáp ứng của buồng trứng. Do đó bác sĩ cần điều chỉnh thuốc và hẹn ngày siêu âm kế tiếp.
- Từ ngày 9 đến ngày 10, khi nang noãn đã "chín", người vợ sẽ được tiêm thuốc rụng trứng. Sau khoảng thời gian từ 36 đến 40 giờ, việc bơm tinh trùng từ người chồng sẽ được tiến hành. Trong quá trình chọn tinh dịch để người chồng thực hiện cần lựa chọn tinh trùng di động tốt để bơm vào tử cung của người vợ để quá trình diễn ra thuận lợi.
- Người vợ có thể hoạt động và làm việc bình thường. Tuy nhiên, cần hạn chế hoạt động mạnh và hỗ trợ sự làm tổ, phát triển của phôi thai. Sau 2 tuần người vợ cần đến bệnh viện để kiểm tra kết quả thụ thai.
Nếu có thai thì cần ngay lập tức tiến hành dưỡng thai, khám thai định kỳ. Nhưng nếu chưa có thai, bệnh nhân sẽ nhận được hướng dẫn giao hợp tự nhiên. Sau đó 2 đến 3 tháng có thể quay lại thực hiện bơm tinh trùng cho lần kế tiếp. Kết quả một quy trình thụ tinh nhân tạo diễn ra thuận lợi sau khoảng 25 đến 30 ngày người vợ sẽ có thai.
3. Thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp hỗ trợ sinh sản hiện đại
Thụ tinh trong ống nghiệm – phương pháp IVF (In Vitro Fertilization): Các bác sĩ chuyên khoa sẽ kích thích buồng trứng để naonx phát triển đến kích thước đủ lớn. Sau đó noãn trưởng thành được chọc hút. Kèm theo đó là tinh trùng người chồng được chọn lọc để kết hợp với trứng của người vợ trong môi trường thuận lợi nhất.
Việc chuyển hợp tử vào buồng tử cung của người vợ vào thời điểm thích hợp. Mục tiêu để phôi phát triển bình thường trong tử cung.
Nên áp dụng xin trứng làm thụ tinh ống nghiệm với trường hợp người vợ bị tắc ống dẫn trứng hoặc tắc vòi trứng. Tinh trùng người chồng yếu, dị dạng hoặc số lượng ít nên không đủ để thực hiện phương pháp bơm tinh trùng.
Có thể áp dụng với các cặp vợ chồng đi xin tinh trùng hoặc xin trứng. Những người vợ lớn tuổi, giảm khả năng sinh sản và đã thất bại với phương pháp bơm tinh trùng vào tử cung.
Phương pháp có tỷ lệ thành công khoảng 41% đối với phụ nữ dưới 35 tuổi. Tỷ lệ thành công thấp hơn ở độ tuổi 35 đến 37 là 32% và chỉ thành công 23% đối với người vợ đã ở tuổi 38 đến 40 tuổi.
Ưu điểm mà phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm là mang đến khả năng có con cho những cặp đôi vô sinh không rõ nguyên nhân và những người gặp vấn đề nghiêm trọng đối với cơ quan sinh sản vẫn có thể làm cha, làm mẹ.
Nhược điểm đối với phương pháp này là chi phí điều trị tốn kém, yêu cầu nền tảng thể chất của người vợ và chồng phải tốt. Ngoài ra, phải tuân theo chế độ dùng thuốc hỗ trợ sinh sản vô cùng chặt chẽ.