Cây dong riềng - sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số
Cây dong riềng giúp phát triển kinh tế cho đồng bào người dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên.
Cây dong riềng gắn liền với sản phẩm miến dong truyền thống đã được xác định là "chìa khóa" tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên.
Cây sinh kế của đồng bào dân tộc
Xã Côn Minh (Thái Nguyên) được thành lập trên cơ sở hợp nhất diện tích và dân số của 3 xã Quang Phong, Dương Sơn và Côn Minh. Với diện tích tự nhiên gần 146,26 km2, Côn Minh sở hữu địa hình đồi núi thấp xen kẽ thung lũng, lý tưởng cho sản xuất nông - lâm nghiệp.
Tính đến năm 2025, xã có tổng cộng 6.635 nhân khẩu, sinh sống tại 18 thôn bản, từ Nà Cà, Rầy Ỏi, đến Bản Cào, Lủng Pảng. Đây là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số Tày, Nùng, Dao, những người gắn bó sâu sắc với núi rừng và đất đai qua nhiều thế hệ. Người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông - lâm nghiệp, chăn nuôi và trồng rừng.
Trong bối cảnh đó, việc tìm kiếm một ngành kinh tế mũi nhọn, có khả năng tạo ra sinh kế bền vững, nâng cao thu nhập và bảo tồn bản sắc văn hóa trở thành nhiệm vụ chiến lược. Cây dong riềng gắn liền với sản phẩm miến dong truyền thống đã được xác định là "chìa khóa" không chỉ ổn định đời sống mà còn nâng tầm thương hiệu nông sản Việt.

Cây dong riềng được trồng nhiều tại xã Côn Minh. Ảnh: Thu Cúc.
Chính quyền xã xác định, mục tiêu cốt lõi của phát triển kinh tế là tạo ra sinh kế vững chắc, nâng cao chất lượng sống cho cộng đồng. Mục tiêu này được hiện thực hóa thông qua việc khai thác tối đa tiềm năng từ cây dong riềng.
Ông Nguyễn Ngọc Cương, Bí thư Đảng ủy xã Côn Minh
Lợi thế đầu tiên của Côn Minh là kinh nghiệm canh tác và chế biến dong riềng đã được tích lũy qua hàng trăm năm. Cây dong riềng không chỉ là một loại cây lương thực, mà đã trở thành một phần văn hóa, gắn liền với tập quán sinh hoạt và ẩm thực của đồng bào Tày, Nùng, Dao.
Nhiều năm trước, cũng giống như nhiều hộ dân khác ở xã Côn Minh, gia đình bà Triệu Thị Hương cũng phải đối mặt với nỗi lo truyền thống của nông nghiệp đồi núi đó là thu nhập thấp, bấp bênh do phụ thuộc vào các cây trồng truyền thống như lúa nương hoặc ngô và đặc biệt là rủi ro "được mùa mất giá."
Khi mô hình liên kết sản xuất giữa nông dân và HTX được triển khai, bà Hương đã mạnh dạn chuyển đổi 3.000m2 đất của gia đình sang trồng cây dong riềng. Theo bà Hương, cây dong riềng dễ trồng, tốn ít công chăm sóc mà hiệu quả kinh tế lại hơn hẳn so với trồng lúa, ngô. Chẳng những thế, những ngày đầu khi mới chuyển đổi, bà Hương còn được HTX hỗ trợ tối đa về giống và kỹ thuật chăm sóc.

Người dân xã Côn Minh thu hoạch dong riềng. Ảnh: Thu Cúc.
Bên cạnh đó, mô hình liên kết sản xuất giữa nông dân và HTX được triển khai xóa nhòa đi nỗi lo không có đầu ra cho nông sản. Thay vì phải lo lắng tìm thương lái và chấp nhận giá cả bị ép, bà Hương và các hộ dân khác có được sự "yên tâm tuyệt đối" vì đã có cam kết đầu ra rõ ràng.
Sau thời gian triển khai chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hiệu quả kinh tế của cây dong riềng đã nhanh chóng được chứng minh, tạo ra sự thay đổi rõ rệt trong thu nhập của gia đình bà Hương.
"Bình quân 1 ha dong riềng thu được từ 80 đến 100 triệu đồng. Con số này cao hơn nhiều lần so với thu nhập từ việc trồng lúa trên cùng diện tích, giúp gia đình tôi có được nguồn tiền mặt đáng kể để tái đầu tư và chi tiêu. Nguồn thu nhập ổn định và tăng trưởng đã giúp gia đình có đủ chi phí để cải tạo nhà cửa khang trang, kiên cố hơn. Gia đình cũng mua được nhiều thiết bị để phục vụ sinh hoạt và sản xuất, từ đó điều kiện sống cũng được cải thiện", bà Hương chia sẻ.
Nâng tầm thương hiệu
Hiện tại, Côn Minh đã chủ động xây dựng một vùng nguyên liệu tập trung, với quy mô trên 120 ha trồng dong riềng. Đây là bước đi chiến lược nhằm kiểm soát chất lượng đầu vào. Việc tổ chức sản xuất được chuẩn hóa thông qua sự tham gia của 2 HTX và 49 hộ gia đình trong làng nghề.
Cơ chế liên kết chặt chẽ này đảm bảo nguồn cung ổn định, mỗi năm cung ứng hàng trăm tấn miến dong chất lượng cao ra thị trường. Từ việc trồng củ, thu hoạch, chế biến tinh bột đến kéo sợi miến, tất cả tạo nên một chuỗi giá trị khép kín, minh bạch và hiệu quả.
Trong bối cảnh thị trường tiêu dùng ngày càng đề cao các tiêu chuẩn về nguồn gốc, an toàn và chất lượng, miến dong Tài Hoan của HTX Tài Hoan (xã Côn Minh) đã vươn lên trở thành biểu tượng chất lượng. Việc sản phẩm này liên tục đạt chuẩn OCOP 5 sao cấp quốc gia (năm 2021 và giữ vững trong đợt đánh giá lại năm 2024) là một thành tựu đáng tự hào, tạo cơ sở và niềm tin vững chắc để người dân tiếp tục tin tưởng vào cây dong riềng.
Giá trị lớn nhất và cốt lõi của mô hình dong riềng Côn Minh nằm ở tính bền vững kinh tế trực tiếp mà nó mang lại cho cộng đồng dân tộc thiểu số khi đã chứng minh được hiệu quả kinh tế vượt trội so với các cây trồng truyền thống khác trong khu vực.
Sự phát triển mạnh mẽ của vùng nguyên liệu dong riềng và làng nghề miến dong đã tạo ra những chuyển biến tích cực, rõ rệt trong diện mạo kinh tế - xã hội của Côn Minh. Sự thay đổi đáng chú ý nhất là trong công tác giảm nghèo.
Nếu như vào năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo toàn xã vẫn còn ở mức trên 30%, một con số đáng báo động đối với vùng núi, thì nhờ vào mô hình kinh tế dựa trên cây dong riềng này, đến năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh xuống chỉ còn khoảng 12%.
Cây dong riềng không chỉ dừng lại ở vai trò cây trồng xóa đói giảm nghèo nhất thời mà còn là điểm tựa quan trọng giúp nhiều hộ gia đình vươn lên khá giả một cách bền vững.
Thu nhập ổn định đã cho phép các gia đình dân tộc thiểu số đầu tư cải thiện nhà cửa kiên cố hơn, đầu tư vào giáo dục cho con cái, và nâng cao chất lượng cuộc sống toàn diện, từ vật chất đến tinh thần.

Nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đời sống của người dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên có sự chuyển biến rõ rệt. Ảnh: Ngọc Tú.
Đằng sau thành công của các hợp tác xã và người dân là sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cấp ủy và chính quyền xã Côn Minh. Phát triển cây dong riềng và sản phẩm miến dong luôn được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, là trụ cột để nâng cao đời sống nhân dân.
Ông Nguyễn Ngọc Cương, Bí thư Đảng ủy xã Côn Minh cho biết, xã xác định phát triển vùng nguyên liệu dong riềng gắn với làng nghề miến dong là trụ cột để phát triển kinh tế địa phương. Côn Minh không chỉ dừng lại ở việc duy trì thành quả hiện có mà còn đặt ra các mục tiêu tham vọng hơn trong giai đoạn đến năm 2030.
Theo đó, xã tiếp tục duy trì và phát triển ổn định làng nghề miến dong thông qua việc đảm bảo thương hiệu và chất lượng miến dong đồng thời đẩy mạnh mở rộng thị phần cho sản phẩm này. Đến năm 2030, xã Côn Minh phấn đấu có thêm ít nhất 2 sản phẩm OCOP mới được công nhận, mở rộng chuỗi giá trị nông sản ra ngoài sản phẩm miến dong. Điều này bao gồm việc phát triển các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp hoặc cây ăn quả khác, nhằm tạo ra một hệ sinh thái kinh tế đa dạng, giảm thiểu rủi ro khi thị trường nông sản biến động.
Để đạt được các mục tiêu trên, chính quyền xã Côn Minh đang tập trung triển khai 3 hướng đi chiến lược đồng bộ, tạo thành một hệ sinh thái phát triển toàn diện đó là quy hoạch và mở rộng diện tích trồng dong riềng gắn với vùng nguyên liệu tập trung, hỗ trợ giống, vốn và kỹ thuật cho người dân; thúc đẩy liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ, khuyến khích doanh nghiệp và Hợp tác xã ký hợp đồng bao tiêu, đảm bảo đầu ra ổn định cho nông sản; nâng cao chất lượng sản phẩm OCOP, chú trọng khâu thiết kế bao bì, nhãn hiệu, ứng dụng thương mại điện tử, mở rộng kênh phân phối trong và ngoài nước.
Song song với đó, xã đẩy mạnh đầu tư hạ tầng giao thông, phát triển dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế. Các chương trình đào tạo nghề, giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất cũng được triển khai đồng bộ, góp phần nâng cao đời sống người dân.
Cây dong riềng đã vượt qua vai trò của một loại cây trồng đơn thuần, trở thành nền tảng sinh kế bền vững, là điểm tựa kinh tế vững chắc giúp đồng bào dân tộc thiểu số ở Côn Minh không chỉ thoát nghèo mà còn vươn lên làm giàu chính đáng.
