Chính phủ đề xuất đầu tư hơn 125 nghìn tỷ đồng chăm sóc sức khỏe, dân số giai đoạn 2026 - 2035
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan trình bày tóm tắt Tờ trình Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035
Chương trình Mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035 bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng.
Theo Tờ trình của Chính phủ, tổng vốn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035 là 125.478 tỷ đồng. Trong đó, dự kiến giai đoạn 2026-2030 là 88.635 tỷ đồng, giai đoạn 2031-2035 là 36.843 tỷ đồng.
Sáng 25/11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ X, Quốc hội khóa XV, Quốc hội nghe trình bày Tờ trình và Báo cáo thẩm tra Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035.
Bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng
Trình bày tóm tắt tờ trình Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, mục tiêu tổng quát của chương trình nhằm: Nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng, người dân chủ động tự chăm sóc và nâng cao sức khỏe; hạn chế bệnh tật, được phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở; giải quyết các vấn đề dân số ưu tiên, chủ động thích ứng với già hóa, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm yếu thế góp phần xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.
Đối tượng thụ hưởng của Chương trình: Toàn bộ người dân Việt Nam, trong đó ưu tiên các đối tượng: người sống ở khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo; người yếu thế; bà mẹ, trẻ em; thanh thiếu niên; các cặp vợ chồng, cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ; người có công với cách mạng; người cao tuổi; người di cư, lao động ở các khu công nghiệp.

Các đại biểu tham dự tại Hội trường
Chương trình gồm 5 dự án thành phần: Nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở; Nâng cao hiệu quả hệ thống phòng bệnh và nâng cao sức khỏe; Dân số và phát triển; Nâng cao chất lượng chăm sóc xã hội cho người yếu thế; Truyền thông y tế, quản lý, theo dõi và giám sát thực hiện Chương trình.
"Nội dung của Chương trình bám sát chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Kết luận số 149-KL/TW ngày 10/4/2025 và Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09/9/2025, của Tổng Bí thư tại Thông báo số 176-TB/VPTW ngày 25/4/2025; đồng thời đảm bảo trọng tâm, trọng điểm, khả thi; không để dàn trải, chồng chéo, trùng lặp với các nhiệm vụ chi đầu tư, chi thường xuyên của ngành, lĩnh vực đã được ngân sách nhà nước đảm bảo; không trùng lặp với các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án chính sách khác đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thực hiện trong giai đoạn 2026 - 2035", Bộ trưởng Đào Hồng Lan khẳng định.
Bộ trưởng Bộ Y tế cho biết, trong quá trình tổ chức thực hiện Chương trình, sẽ có sự phân cấp, phân quyền, tạo chủ động, linh hoạt cho các địa phương và cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Chương trình ở các cấp, các ngành; có biện pháp phòng ngừa, kịp thời ngăn chặn biểu hiện tiêu cực, lãng phí và xử lý nghiêm minh vi phạm trong quá trình tổ chức thực hiện.
Đề nghị bổ sung đối tượng ưu tiên là người khuyết tật
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, về cơ bản, Ủy ban tán thành sự cần thiết xây dựng Chương trình để thể chế hóa chủ trương của Đảng nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt công tác dân số và phát triển.

Ủy ban Văn hóa và Xã hội đề nghị Chính phủ nghiên cứu bổ sung đối tượng ưu tiên là người khuyết tật. Ảnh minh họa
Liên quan đến đối tượng thụ hưởng của Chương trình, Ủy ban Văn hóa và Xã hội đề nghị Chính phủ nghiên cứu bổ sung đối tượng ưu tiên là người khuyết tật; đồng thời chỉnh lý quy định về đối tượng ưu tiên theo hướng để Chính phủ quy định chi tiết bảo đảm thể chế hóa đầy đủ theo tinh thần Nghị quyết số 72 và thuận tiện trong triển khai thực hiện.
Chính phủ cũng cần xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn tối thiểu; bảo đảm cân đối vốn hợp lý trong thực hiện 2 mục tiêu quan trọng của Chương trình là chăm sóc sức khỏe và dân số và phát triển; đánh giá sát khả năng huy động nguồn vốn ngân sách địa phương và tính toán đề xuất mức bố trí vốn ngân sách địa phương phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, nhất là với địa phương khó khăn trong bố trí vốn đối ứng; tiếp tục đánh giá, có giải pháp huy động các nguồn lực xã hội hóa, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, thể chế hóa yêu cầu của Kết luận số 149 và Nghị quyết số 72 của Bộ Chính trị; rà soát, không bố trí vốn các nội dung hoạt động tại các tiểu dự án đã được bảo đảm bằng nguồn kinh phí thường xuyên.
Ngoài ra, Ủy ban cũng đề xuất Cơ quan chủ trì soạn thảo chú ý đến một số vấn đề khác như: làm rõ căn cứ đề xuất, xây dựng một số mục tiêu, tính khả thi và giải pháp thực hiện; rà soát, lựa chọn những nội dung cốt lõi, quan trọng, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực; xem xét nghiên cứu bổ sung dự án phát huy thế mạnh của y học cổ truyền, dược liệu, bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm…
10 mục tiêu cụ thể của Chương trình
- Góp phần nâng tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và đạt 95% đến năm 2035.
- Tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
- Tỷ lệ trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) các tỉnh, thành phố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học đến năm 2030 đạt 100%.
- Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm đầy đủ theo quy trình được hướng dẫn đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%.
- Tỷ lệ người dân được tiếp cận với ít nhất 01 kênh thông tin đại chúng chính thống về chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh, nâng cao sức khỏe đạt 50% vào năm 2030 và đạt 80% vào năm 2035.
- Tỷ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030.
- Tỷ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.
- Tỷ lệ cặp nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035.
- Số lượng người yếu thế, người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.