Công bố Bảng xếp hạng VNR500 - Top500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2025
Công bố bảng xếp hạng VNR500 kỳ công bố Năm 2025
Nếu như năm 2024 còn ghi nhận tỷ lệ doanh nghiệp sụt giảm doanh thu, lợi nhuận và đơn hàng khá lớn, thì sang năm 2025 bức tranh trở nên tích cực hơn: 86,1% doanh nghiệp cho biết doanh thu tăng.
Ngày 12/11, Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) phối hợp cùng Báo VietNamNet công bố Bảng xếp hạng VNR500 - Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2025 và Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam năm 2025.
10 doanh nghiệp đứng đầu danh sách VNR500 gồm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Samsung Electronic Việt Nam Thái Nguyên, Tập đoàn Công nghiệp-Năng lượng quốc gia, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Tập đoàn Vingroup - Công ty Cổ phần, Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông quân đội, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam, Công ty cổ phần Tập đoàn Hòa Phát.
Đánh giá về kết quả doanh thu của các doanh nghiệp thuộc danh sách VNR500, ông Vũ Đăng Vinh, Tổng giám đốc Vietnam Report cho hay, năm 2025 được xem là cột mốc mở đầu cho chu kỳ tăng trưởng cao mới của kinh tế Việt Nam, đánh dấu bước chuyển quan trọng sau giai đoạn đầy biến động của kinh tế thế giới.
Nền tảng kinh tế vĩ mô tiếp tục được củng cố theo hướng ổn định và bền vững hơn: lạm phát được kiểm soát, cân đối lớn của nền kinh tế được duy trì, môi trường đầu tư - kinh doanh tiếp tục cải thiện.
Niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư quốc tế đang dần phục hồi, thể hiện qua dòng vốn FDI chất lượng cao duy trì đà tăng, cùng với việc đẩy mạnh đầu tư công vào các dự án hạ tầng then chốt tạo dư địa tăng trưởng mới.
Kết quả khảo sát doanh nghiệp VNR500 do Vietnam Report thực hiện, cho thấy, hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp tiếp tục có sự cải thiện rõ nét thể hiện qua doanh thu, lợi nhuận, đơn hàng và nhân sự.
Nếu như năm 2024 còn ghi nhận tỷ lệ doanh nghiệp sụt giảm doanh thu, lợi nhuận và đơn hàng khá lớn, thì sang năm 2025 bức tranh trở nên tích cực hơn: 86,1% doanh nghiệp cho biết doanh thu tăng, 80,6% ghi nhận lợi nhuận cải thiện, và 70,6% phản hồi đơn hàng tăng trưởng.
Tín hiệu phục hồi không chỉ thể hiện ở kết quả kinh doanh mà còn phản ánh trên thị trường lao động với tỷ lệ doanh nghiệp tăng nhân sự tích cực hơn trong 2025.
Dù ghi nhận xu hướng tích cực của kinh tế vĩ mô và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, song những vấn đề quốc tế vẫn tồn tại và có chiều hướng gia tăng. Một số khó khăn được nền kinh tế thích ứng, tuy nhiên những hệ lụy vẫn lan tỏa và bao trùm doanh nghiệp Việt.
Các chính sách bảo hộ, rào cản thương mại, kiểm soát công nghệ và xu hướng tự chủ chiến lược tại nhiều quốc gia khiến hoạt động xuất nhập khẩu khó dự đoán hơn. Bất ổn còn kéo theo biến động giá hàng hóa, chi phí logistics và lãi suất quốc tế, gây áp lực lên chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, sự thay đổi chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế lớn cũng tạo rủi ro tỷ giá và dòng vốn.
Ông Vũ Đăng Vinh phân tích thêm, Việt Nam không chỉ ứng phó, mà còn chủ động thích ứng bằng hội nhập trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động mạnh, khi chủ nghĩa bảo hộ và các rào cản thương mại ngày càng được siết chặt. Việt Nam vẫn giữ vững vị thế của một nền kinh tế mở, năng động và có sức chống chịu cao.
Việt Nam tiếp tục kiên định với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, lấy hòa bình, hợp tác và phát triển làm trọng tâm.
Chính sách đối ngoại “là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” giúp Việt Nam mở rộng mạng lưới đối tác chiến lược toàn diện với 14 quốc gia, trong đó có nhiều nền kinh tế lớn - như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh - không chỉ khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam trên bản đồ thương mại thế giới, mà còn giúp doanh nghiệp trong nước đứng vững trước cơn sóng thuế quan đang lan rộng toàn cầu.
Để giảm thiểu những tác động tiêu cực trong diễn biến thương mại quốc tế, kết quả khảo sát doanh nghiệp VNR500 của Vietnam Report cho thấy, 69,4% doanh nghiệp cho rằng đa dạng hóa thị trường xuất khẩu là lợi thế then chốt giúp giảm thiểu tác động tiêu cực từ các biến động thương mại quốc tế.
Số liệu thực tế cũng cho thấy, Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại với hơn 230 đối tác; trong đó 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đang có hiệu lực, bao phủ gần 90% GDP toàn cầu.
Điều này giúp hàng hóa Việt Nam tiếp cận thuận lợi hơn với các thị trường lớn, giảm sự phụ thuộc vào một khu vực duy nhất. Chẳng hạn, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ, EU và Nhật Bản vẫn tăng trên 10% trong 9 tháng đầu năm 2025 bất chấp xu hướng tăng thuế tại một số nước.
Ngoài ra, 63,9% doanh nghiệp đánh giá chuỗi cung ứng linh hoạt là yếu tố quan trọng để thích ứng nhanh với thay đổi. Trong hai năm gần đây, nhiều tập đoàn FDI đã dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam nhằm tận dụng ưu đãi thuế và vị trí địa chiến lược, giúp Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất – xuất khẩu.
Doanh nghiệp nội địa cũng chủ động hơn trong việc tái cấu trúc nguồn cung, đa dạng hóa nhà cung ứng và áp dụng công nghệ trong quản trị, từ đó giảm chi phí và rủi ro khi thị trường quốc tế biến động.
Một yếu tố khác giúp Việt Nam duy trì lợi thế cạnh tranh là sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao và đạt chuẩn bền vững, được 61,1% doanh nghiệp xem là yếu tố cốt lõi.
Hướng đi này phù hợp với xu hướng tiêu dùng xanh, tiêu chuẩn ESG và yêu cầu truy xuất nguồn gốc ngày càng khắt khe từ các thị trường phát triển.
Ngành dệt may, da giày, gỗ, điện tử và nông sản đang chuyển mạnh sang sản xuất xanh, giảm phát thải carbon và ứng dụng công nghệ số để nâng cao năng suất, đáp ứng yêu cầu của Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU, cũng như tiêu chuẩn Net Zero từ các đối tác thương mại.
Đồng thời, những quy chuẩn về xuất xứ hàng hóa cần được chú trọng hơn cả, nhất là trong bối cảnh thuế quan, Việt Nam là nơi kiến tạo giá trị sản phẩm, không trở thành nơi trung chuyển thuần túy để lợi dụng ưu đãi thuế quan.