Triều Nguyễn tồn tại 143 năm, qua 13 đời vua trị vì nhưng chỉ có hai vị hoàng hậu đầu tiên và cuối cùng được sắc phong khi còn sống. Đó là Thừa Thiên Cao hoàng hậu Tống Thị Lan, vợ vua Gia Long và Nam Phương hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Lan, vợ vua Bảo Đại. Cuộc đời hai hoàng hậu cùng tên Lan có nhiều trắc trở. Cho đến nay, sử sách cũng chưa lý giải vì sao từ thời vua Minh Mạng trở đi đều để trống ngôi vị chủ hậu cung, chỉ ban tước cao nhất là hoàng quý phi, giúp hoàng thái hậu trông coi lương thực, chỉnh tề công việc bên trong.
Người vợ đồng cam cộng khổ với vua Gia Long
Thừa Thiên Cao hoàng hậu (1762-1814) tên thật là Tống Thị Lan, là vợ đầu tiên của vua Gia Long, bôn ba khắp nơi theo ông gây dựng lại cơ đồ chúa Nguyễn. Năm 1778, bà theo cha là Quý quốc công Tống Phúc Khuông cùng gia quyến vào Gia Định. Khi bà 18 tuổi, Nguyễn Phúc Ánh đã đích thân đem lễ vật đến hỏi cưới và lập làm nguyên phi. Bà là người cẩn trọng, có phép tắc lễ độ nên được gia đình chồng yêu quý.
Khi bị nhà Tây Sơn truy đuổi gắt gao, Nguyễn Phúc Ánh vừa cầu cứu quân Xiêm La, lại đem con trai 3 tuổi là hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh giao cho giáo sĩ Bá Đa Lộc làm con tin, sang Pháp hòng cầu thêm ngoại viện. Chia ly chẳng biết ngày đoàn tụ, ông đã chặt đôi nén vàng, giữ một nửa còn một nửa đưa cho vợ và nói "Con chúng ta đi rồi, ta cũng sẽ đi đây, phi hãy phụng dưỡng quốc mẫu (mẹ chồng). Chưa biết sau này gặp nhau ở nơi nào và ở ngày nào, đem vàng này để làm của tin". Bà nuốt nước mắt, nhận trọng trách phụng dưỡng mẹ chồng, chăm nom gia tộc suốt thời gian đó.
Cầu cứu được 50 nghìn viện binh Xiêm La nhưng Nguyễn Phúc Ánh vẫn bị nhà Tây Sơn đè bẹp. Bà Tống Thị Lan cùng mẹ chồng lánh mình ở đảo Phú Quốc, ngày ngày ngóng đợi tin. Khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại được thành Gia Định liền cho người đón mẹ và vợ về. Từ đây, bà luôn đi theo ông để chăm lo mọi việc.
Năm 1793, Nguyễn Phúc Ánh đề nghị bà làm mẹ nuôi cho hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm (vua Minh Mạng) dù mẹ đẻ của hoàng tử là bà phi Trần Thị Đang (Thuận Thiên Cao hoàng hậu) còn đang khỏe mạnh. Bà bằng lòng với điều kiện chồng phải viết giao ước. Nguyễn Phúc Ánh đồng ý, từ đó hoàng tử Đảm về ở hẳn với bà.
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lật đổ hoàn toàn nhà Tây Sơn, lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long. Sau đó một năm, bà được lập làm vương hậu và năm 1806 thì được phong làm hoàng hậu. Vua có hơn trăm phi tần nhưng chỉ lập duy nhất ngôi hậu cho bà. Tiếc rằng hưởng phúc không được bao lâu thì hoàng hậu qua đời năm 1814, thọ 53 tuổi. Vua Gia Long thương tiếc nên khóc lóc rất thảm thiết, để tang bà một năm theo lễ. Hoàng hậu được hiệp táng ngay sát cạnh mộ vua Gia Long trong khuôn viên Thiên Thọ lăng. Đây là lăng tẩm duy nhất của nhà Nguyễn có mộ vua và hoàng hậu đặt song song nhau.
Thừa Thiên Cao hoàng hậu sinh được hai người con trai nhưng đều mất sớm, trước khi vua Gia Long đoạt được sơn hà. Cuộc đời hoàng hậu đầu tiên của triều Nguyễn gặp nhiều trắc trở, con cháu bà dù thuộc dòng đích (con cả) của vua Gia Long nhưng cũng chịu đắng cay không kém, trầm luân trong cuộc củng cố vương quyền dưới thời Minh Mạng khi kẻ chết, người bị giáng làm thường dân.
Con trai đầu của bà là hoàng tử Cảnh khi 3 tuổi đã theo Bá Đa Lộc làm con tin, lênh đênh chân trời góc bể, sau này ở ngôi đông cung thái tử chưa được bao lâu thì mắc bệnh đậu mùa rồi mất khi mới 21 tuổi, để lại vợ và hai con trai. Sau này, vua Gia Long không chọn cháu đích tôn Nguyễn Phúc Mỹ Đường, con trai cả của hoàng tử Cảnh lên nối ngôi, mà truyền ngôi cho hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm.
Dưới thời vua Minh Mạng, con dâu, cháu nội của Thừa Thiên Cao hoàng hậu bị giáng cho tội thông dâm với nhau, người bị dìm nước cho đến chết, người phải giao trả ấn tín, bị giáng làm thứ dân, người bị bệnh chết. Sau chắt nội của bà được phong tước để lo việc thờ phụng Anh Duệ hoàng thái tử (tức hoàng tử Cảnh). Cuộc trầm luân vẫn chưa kết thúc, năm 1836, triều thần tiếp tục nghị tội, buộc dòng dõi của hoàng tử Cảnh bị giáng làm dân thường mới được tạm yên ổn.
Nói về cuộc đời Thừa Thiên Cao hoàng hậu, tiến sĩ sử học Nguyễn Khắc Thuần nhận xét, việc bắt Nguyễn Phúc Ánh làm tờ giao ước khi nhận Nguyễn Phúc Đảm làm con nuôi là biểu hiện sự cẩn trọng của bà đối với Thuận Thiên Cao hoàng hậu, cũng là cẩn trọng đối với chính người chồng. Tiếc là sự cẩn trọng ấy vẫn chưa đủ. Theo TS Thuần, thời ấy có hai tội thuộc hàng đại ác không thể tha là bất trung và thất đức. Bất trung thì con trai trưởng của hoàng tử Cảnh chẳng có biểu hiện gì, Minh Mạng muốn yên vị trên ngai vàng ắt phải khép Mỹ Đường vào tội thất đức là thông dâm với mẹ.
"Vua Minh Mạng... từ nhỏ đã được Thừa Thiên Cao hoàng hậu nuôi dưỡng, với hoàng tử Cảnh khác chi anh em cùng cha cùng mẹ, thế mà cam tâm giết hại chị dâu, đày đọa các con của anh. Ai đó nói rằng, phàm là hoàng đế thì chẳng thể dung tha dòng trưởng của tộc họ nhà mình. Mức độ đúng sai với ai thì chưa rõ, nhưng với vua Minh Mạng thì chí lý thay", ông đánh giá.
Cuộc đời vui buồn của hoàng hậu Nam Phương
Hoàng hậu Nam Phương (1914-1963), vợ vua Bảo Đại, tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, nổi tiếng bởi vẻ đẹp dịu dàng, đức hạnh và tài năng.
Năm 1932, vua Bảo Đại về nước sau 10 năm học ở Pháp. Vị vua trẻ đẹp trai, thích thể thao, săn bắn trở thành người chồng lý tưởng của các cô gái nhà quyền quý. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thì người đầu tiên được chọn làm vợ Bảo Đại không phải là bà Nam Phương mà là cô Bạch Yến, con gái ông Phó bảng Nguyễn Đình Tiến quê Phong Điền (Thừa Thiên- Huế). Cô Yến đã được dạy đàn ca, nghi lễ chuẩn bị tiến cung nhưng cuối cùng không được chọn.
Dưới sự sắp xếp của vợ chồng Charles - nguyên Khâm sứ Trung Kỳ, Bảo Đại gặp gỡ cô Lan xinh đẹp, từng 3 lần đoạt giải hoa hậu Đông Dương, cháu ngoại ông Huyện Sỹ giàu nhất miền Nam thời bấy giờ tại một buổi tiệc ở Đà Lạt. Hoàng đế trẻ bị người con gái mặc áo dài lụa đen, gương mặt thanh thoát không trang điểm cuốn hút. Họ thường gặp lại nhau một cách "bất ngờ" sau lần hội ngộ đầu tiên ấy.
Khi Bảo Đại ngỏ lời cầu hôn, cô Lan đồng ý lấy ông với 3 điều kiện: được tấn phong làm hoàng hậu ngay trong lễ cưới; được giữ nguyên đạo Thiên chúa; các con sinh ra đều được rửa tội, được giữ đạo; cuộc hôn nhân này phải được Tòa thánh La Mã cho phép, hai người giữ hai tôn giáo khác nhau, không ai bắt buộc ai về tôn giáo.
Cuộc hôn nhân gặp nhiều bàn tán, vấp phải nhiều lễ giáo mấy trăm năm của tiền triều. Nhưng với quyết tâm của ông vua được ăn học bên Tây, hôn lễ vẫn được tổ chức vào ngày 20/3/1934 tại điện Cần Chánh - nơi vua thiết triều. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà Nguyễn, có một người phụ nữ xuất hiện giữa triều đình, được mặc phẩm phục màu vàng cam - màu sắc chỉ dành riêng cho hoàng đế. Ngay sau lễ cưới, Bảo Đại đã tấn phong cho bà Nguyễn Hữu Thị Lan làm hoàng hậu. Tên hiệu Nam Phương có nghĩa là "hương thơm của phương Nam".
Vua còn sửa nội thất điện Kiến Trung cổ kính thành nơi tân tiến với nhiều tiện nghi như có nhiều phòng ngủ, phòng ăn, phòng làm việc. Là người theo học ở nước ngoài nhiều năm, hoàng hậu Nam Phương giúp chồng ngoại giao, đón tiếp quốc khách, giao thiệp với người Pháp, trong nước làm khuyến học, giúp người nghèo. Bà sinh cho vua Bảo Đại 5 người con gồm hoàng thái tử Bảo Long, công chúa Phương Mai, Phương Dung, Phương Liên và hoàng tử Bảo Thăng.
Hoàng hậu Nam Phương có một tuổi thanh xuân êm đềm, bước vào cuộc hôn nhân tưởng chừng viên mãn nhưng rồi rạn nứt, bà sống thiếu hạnh phúc những năm cuối đời và chết trong cô đơn nơi đất khách. Tháng 8/1945, vua Bảo Đại thoái vị rồi ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà Nam Phương cùng các con dọn ra cung An Định, bên bờ sông An Cựu sống.
Rời bỏ cuộc sống giàu sang của một bà hoàng, bà dốc sức nuôi dạy các con, tham gia góp vàng bạc, vận động người dân Huế gây quỹ cho chính quyền mới. Nhân danh cựu hoàng hậu của nước Việt Nam, bà thay mặt cho 13 triệu phụ nữ Việt Nam gửi thông điệp vận động phụ nữ thế giới tố cáo âm mưu lăm le quay lại xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp.
Dù từng công khai nói trước triều đình là "chống lại tục đa thê của vua chúa Việt Nam" nhưng cựu hoàng Bảo Đại vẫn có vô số nhân tình bên ngoài. Chuyện nước, chuyện nhà không vui khiến cựu hoàng hậu và các con qua Pháp sinh sống còn Bảo Đại thì vẫn ở Việt Nam. Năm 1949, không chịu được gian khổ, thử thách của hoàn cảnh, ông quay lại cộng tác với Pháp. Năm 1955, khi lên nắm chính quyền miền Nam, Ngô Đình Diệm đã tịch thu tài sản của gia đình cựu hoàng ở Sài Gòn và cả ở Pháp. Bảo Đại uất ức, bỏ nhà đi săn, theo đuổi nhân tình. Cha con, vợ chồng tan tác khiến bà Nam Phương đau khổ.
Cựu hoàng hậu sống lặng lẽ tại ngôi làng Chabrignac, một vùng nông thôn nước Pháp. Bảo Đại ít khi về thăm bà, chỉ có vài ba lần và lần nào cũng rất ngắn ngủi. Hoàng hậu Nam Phương qua đời vào ngày 14/9/1963. Hôm đó, bà thấy người mệt mỏi, gọi bác sĩ thì được chẩn đoán viêm họng nhẹ, chỉ cần uống thuốc vài hôm. Nhưng bác sĩ mới đi được vài tiếng thì bà thấy khó thở rồi qua đời ngay trong đêm, khi 49 tuổi. Vị hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn sống không hạnh phúc, mất trong cô đơn, không có người thân bên cạnh ngoài các nàng hầu. Khi đó, các con bà đều học hành, làm việc ở Paris.
Đám tang hoàng hậu Nam Phương được tổ chức ở nhà thờ Chabrignac, có đầy đủ dân làng mến mộ bà. Các con trai, con gái đều về chịu tang mẹ, riêng người chồng Bảo Đại thì không thấy đâu. Bà được an táng ngay cạnh khu mộ thuộc gia đình bá tước De La Besse. Bà bá tước chính là công chúa Như Lý (con gái vua Hàm Nghi) khi biết tin đã chua xót nói "Ở gần nhau hàng 5 năm mà không biết nhau, đến khi người cháu Nam Phương qua đời rồi mới biết. Thật tiếc thương".
Mộ hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn đơn sơ, trên bia đá ghi dòng chữ Hán "Đại Nam Nam Phương hoàng hậu chi lăng", mặt sau ghi dòng chữ Pháp, dịch "Đây là nơi an nghỉ của hoàng hậu An Nam, nhũ danh Maria Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan".
Theo ông Nguyễn Đắc Xuân, vì thương mến bà nên người ta đã táng theo những đồ trang sức quý giá. Nhưng việc này đã để lại hậu quả xấu là bọn trộm nhiều lần đào bới để tìm vàng.
Dân làng Chabrignac đã xem mộ hoàng hậu Nam Phương là một trong ba di sản quý của làng.