Theo TS Võ Văn Chi, tơ hồng có tên khoa học là Cuscuta chinensis Lam. Đây là dạng dây leo không có diệp lục. Toàn thân cây dạng sợi to từ 1 đến 2mm, màu vàng, bóng nhẵn có vòi hút, thường ký sinh trên một số cây bụi, phân bố phổ biến khắp Việt Nam. Đông y dùng toàn toàn cây và hạt để làm thuốc, thường gọi là thỏ ti tử. Tơ hồng vị ngọt, tính bình, tác dụng thanh nhiệt lợi thủy, lương huyết giải độc. Hạt có vị cay, ngọt, tính bình, tác dụng tư can, bổ thận, ích tinh, thanh nhiệt lương huyết, tráng dương.
Người ta thu hái cây vào mùa thu, phơi khô. Hạt thường được dùng trị lưng gối yếu mỏi, liệt lương, di tinh, đái đục, đầu váng mắt hoa, sức nhìn giảm sút, thai động. Dây tơ hồng còn trị mụn nhọt, sạm da mặt.
Dây tơ hồng giúp điều trị nhiều loại bệnh. Ảnh minh hoạ. |
Phân tích dược lý cho thấy tơ hồng có cuscutosid A, B và cuscutamin. Hạt chứa agroclavin, tác động vào trung tâm giao cảm, hạ huyết áp, trợ tim.
Một số bài thuốc từ dây tơ hồng được TS Võ Văn Chi giới thiệu:
Đái tháo đường: Dùng tơ hồng tử 1kg, mật ong 1lít. Ngâm thỏ ti tử trong rượu 10 ngày, vớt ra phơi khô, giã nát khi còn ẩm rồi sấy khô, nghiền thành bột. Cho thêm mật ong vào, vo thành viên như hạt đậu đen. Mỗi lần dùng 50 viên, uống với nước nóng trước khi ăn cơm.
Lang ben (bạch điển phong): 50g cây tơ hồng tươi xắt nhuyễn ngâm trong 100ml rượu cồn 75 độ trong 7 ngày. Khi dùng, lấy tăm bông nhúng vào thuốc bôi vào chỗ bệnh. Mỗi ngày bôi từ 2 đến 3 lần, dùng liên tiếp 30 ngày.
Hen suyễn: Dây tơ hồng sao, lá táo chua, mỗi vị 30g, sắc uống.
Tiểu nước đục đỏ do thận hư yếu, tinh ít, huyết ráo, miệng khô, phiền nhiệt, đầu choáng váng, hồi hộp: Tơ hồng, mạch môn (bỏ lõi), mỗi vị 20g, sắc uống.