Xem thêm thông tin của Báo PNVN trên
Phụ nữ Việt Nam
MỚI NHẤT ĐỘC QUYỀN MULTIMEDIA CHUYÊN ĐỀ
12/11/2025 - 10:49 (GMT+7)

Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bước đột phá trong tư duy về đối ngoại

Diệu Linh
Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bước đột phá trong tư duy về đối ngoại

Tổng Bí thư Tô Lâm và Thủ tướng Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland Keir Starmer. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng lần đầu tiên đề xuất đưa “đối ngoại, hội nhập quốc tế” lên ngang hàng với quốc phòng và an ninh, được xem là bước đột phá trong tư duy chiến lược của Đảng.

Trong bối cảnh thế giới đang chứng kiến những chuyển dịch sâu sắc về địa chính trị và cấu trúc quyền lực, việc gắn kết chặt chẽ giữa phát triển-an ninh-đối ngoại trở thành yêu cầu tất yếu.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng lần đầu tiên đề xuất đưa “đối ngoại, hội nhập quốc tế” lên ngang hàng với quốc phòng và an ninh, trở thành nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”.

Đây được xem là bước đột phá trong tư duy chiến lược của Đảng, thể hiện tầm nhìn mới về bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập toàn cầu.

Theo Thạc sỹ Phan Xuân Dũng - Nghiên cứu viên Chương trình Nghiên cứu Việt Nam tại Viện ISEAS-Yusof Ishak (Singapore), nghiên cứu sinh tại Đại học Quốc gia Australia, việc đặt đối ngoại ngang hàng với quốc phòng, an ninh không chỉ là định hướng đúng đắn mà còn là yêu cầu cấp thiết để Việt Nam chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức trong bối cảnh hiện nay, khi cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt và các vấn đề an ninh phi truyền thống gia tăng.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng lần đầu tiên đề xuất đưa “đối ngoại, hội nhập quốc tế” lên ngang hàng với quốc phòng và an ninh, trở thành nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”. Đây được xem là bước đột phá trong tư duy chiến lược của Đảng, thể hiện tầm nhìn mới về bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập toàn cầu.

Ông cho rằng đối ngoại ngày nay không còn chỉ là công cụ hỗ trợ, mà đã trở thành “tuyến phòng thủ đầu tiên” của quốc gia - giúp ngăn ngừa chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nếu quốc phòng và an ninh là “lá chắn” bảo vệ chủ quyền, thì đối ngoại chính là “mũi nhọn” mở đường, tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước.

Việc nâng tầm đối ngoại còn phản ánh vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế. Với mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện sâu rộng, cùng vai trò ngày càng tích cực tại các diễn đàn đa phương như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc hay Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Việt Nam đã chuyển mình từ một “người tham gia thụ động” thành một thành viên có trách nhiệm, thậm chí là nước kiến tạo trong một số vấn đề khu vực và toàn cầu.

Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bước đột phá trong tư duy về đối ngoại- Ảnh 1.

Chủ tịch nước Lương Cường dự Hội nghị Cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 32. (Ảnh: Lâm Khánh/TTXVN)

Chuyên gia Phan Xuân Dũng nhấn mạnh đưa đối ngoại lên tầm ngang hàng quốc phòng, an ninh là sự điều chỉnh tất yếu, phù hợp với tầm vóc và khát vọng phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Để hiện thực hóa định hướng này, chuyên gia Phan Xuân Dũng khuyến nghị Việt Nam cần đầu tư tương xứng cho lực lượng ngoại giao trên ba phương diện trọng yếu:

Xây dựng hệ sinh thái tri thức phục vụ đối ngoại: Các quốc gia có nền ngoại giao mạnh đều sở hữu hệ thống nghiên cứu chiến lược độc lập, nơi các chuyên gia, học giả được khuyến khích nghiên cứu sâu, tranh luận tự do và đóng góp thiết thực cho hoạch định chính sách. Việt Nam cần tăng cường năng lực của các viện nghiên cứu, trường đại học trong nước, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.

Cập nhật phương pháp và nội dung nghiên cứu: Cộng đồng nghiên cứu Việt Nam cần bắt nhịp với các xu hướng mới của ngành quan hệ quốc tế như ngoại giao số, an ninh phi truyền thống, địa kinh tế học hay vai trò của các tác nhân phi Nhà nước… nhằm tham mưu chính xác và kịp thời cho lãnh đạo.

Đầu tư nguồn lực thỏa đáng: Bao gồm đào tạo đội ngũ cán bộ ngoại giao chuyên nghiệp, hiện đại; tăng ngân sách cho hoạt động đối ngoại; đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Liên quan tới nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo, theo Thạc sỹ Phan Xuân Dũng, vai trò của đối ngoại trong việc tranh thủ nguồn lực bên ngoài là then chốt.

Ông lý giải, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã sáng suốt khi xác định “ngoại giao kinh tế” và “ngoại giao công nghệ” là trọng tâm của giai đoạn tới - thể hiện tư duy mới về gắn kết ngoại giao với phát triển.

Cụ thể, chuyên gia Phan Xuân Dũng khuyến nghị Việt Nam cần tận dụng tối đa mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và đối tác chiến lược với các nước tiên tiến về công nghệ để tiếp cận, chuyển giao và làm chủ công nghệ hiện đại, ưu tiên thiết lập các cơ chế hợp tác sâu trong nghiên cứu và phát triển (R&D), đào tạo nhân lực chất lượng cao và xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Đồng thời, cần đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao, không chỉ về vốn mà quan trọng hơn là công nghệ, quản trị và kết nối chuỗi giá trị toàn cầu.

Ngoại giao kinh tế phải “đi trước mở đường”, tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp nước ngoài coi Việt Nam là điểm đến chiến lược.

Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bước đột phá trong tư duy về đối ngoại- Ảnh 2.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự và phát biểu tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-Nhật Bản lần thứ 28. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)

Việt Nam cũng cần tận dụng vai trò thành viên tích cực trong các tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) để tiếp cận các nguồn lực tài chính, công nghệ và tri thức phục vụ phát triển. Như Dự thảo Văn kiện nhấn mạnh, Việt Nam cần “phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực” - đó chính là con đường giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách công nghệ với các quốc gia phát triển.

Theo chuyên gia Phan Xuân Dũng, việc Dự thảo Văn kiện đề cập tới ba khái niệm “đa tầng-phân mảnh-phân tuyến mạnh” thể hiện sự nhận diện sắc bén của Đảng về cục diện quốc tế đang chuyển biến nhanh và sâu sắc.

“Đa tầng” không chỉ là sự phân cực giữa các cường quốc, mà còn là sự phân tầng về năng lực tác động và tầm ảnh hưởng giữa các quốc gia. “Phân mảnh” phản ánh sự suy yếu của các thể chế toàn cầu truyền thống, tạo ra khoảng trống cần được lấp đầy bởi các cơ chế mới linh hoạt hơn.

Trong khi “phân tuyến mạnh” thể hiện xu hướng các nước hợp tác theo lợi ích cụ thể, thay vì các khối ý thức hệ như trước đây. Trong bối cảnh này, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam trở thành lợi thế chiến lược.

Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bước đột phá trong tư duy về đối ngoại- Ảnh 3.

Thạc sỹ Phan Xuân Dũng - Nghiên cứu viên Chương trình Nghiên cứu Việt Nam tại Viện ISEAS - Yusof Ishak (Singapore), nghiên cứu sinh tại Đại học Quốc gia Australia. (Nguồn: TTXVN)

Không bị ràng buộc vào bất kỳ khối cạnh tranh nào, Việt Nam giữ được “tự do chiến lược” để hợp tác với tất cả các bên dựa trên lợi ích quốc gia - dân tộc. Điều này giúp Việt Nam trở thành cầu nối tin cậy giữa các nước và các khối có cạnh tranh chiến lược với nhau, qua đó nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

Từ vị thế cầu nối này, Việt Nam có thể tranh thủ tối đa nguồn lực, công nghệ, vốn đầu tư và sự ủng hộ từ nhiều phía để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia.

Với mạng lưới 14 đối tác chiến lược toàn diện bao gồm cả 5 Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5) - cùng vai trò tích cực trong ASEAN, Liên hợp quốc, APEC và nhiều diễn đàn khu vực khác, Việt Nam đã có đủ uy tín và năng lực để đề xuất sáng kiến hợp tác mới, góp phần định hình các chuẩn mực quốc tế trong các lĩnh vực như quản trị biển, an ninh lương thực, hay chuyển đổi xanh.

Một minh chứng rõ nét là việc Việt Nam được chọn đăng cai Lễ mở ký Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng tại Hà Nội - sự kiện thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với uy tín, vị thế và năng lực đóng góp của Việt Nam trong việc xây dựng các khuôn khổ pháp lý toàn cầu và định hình trật tự quốc tế một cách chủ động, có trách nhiệm.

Nguồn: www.vietnamplus.vn
Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận