Năm 1965, sau Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam (3/1965), Ban Phụ Vận Thành ủy Sài Gòn-Gia Định được thành lập do chị Lê Thị Riêng làm trưởng ban. Chị Nguyễn Thị Tấn, phó ban phụ trách phụ nữ vùng nông thôn. Chị Nguyễn Thị Chơn, ủy viên phụ trách công tác mặt trận phụ nữ. Chị Đỗ Duy Liên, ủy viên phụ trách công tác phụ nữ 36 chợ. Nhiệm vụ của Ban phụ vận là tạo ra một trung tâm chính trị để hiệu triệu công khai các tầng lớp phụ nữ thành phố, xây dựng và củng cố cơ sở, đưa phong trào phụ nữ ở các xóm lao động, các chợ đô thành lên đều, phối hợp với phong trào các giới tiến công mạnh mẽ vào đế quốc Mỹ xâm lược.
Phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động phát triển với hàng loạt cuộc biểu tình bãi công trên qui mô lớn và rất quyết liệt với khẩu hiệu đòi dân sinh, dân chủ. Trong các cuộc xuống đường liên tiếp của Phật giáo, sinh viên, học sinh, chị em tiểu thương ở các chợ Vườn Chuối, Bàn Cờ,… bãi thị kéo nhau tới chùa, danh nghĩa là nghe thuyết pháp nhưng thực chất là đi dự hội thảo, đi biểu tình tuần hành chống Diệm-Nhu, chống Nguyễn Khánh. Dọc đường đi của đoàn biểu tình, các mẹ, các chị còn mang theo nước uống, bánh mì, chuyền tay nhau tiếp tế cho những người đi đấu tranh. Sự chăm sóc đầy nghĩa tình của các mẹ, các chị đã động viên cổ vũ tinh thần đoàn biểu tình. Khi cảnh sát dã chiến đàn áp, anh chị em tản vào nhà dân, các chị sẵn sàng mở cửa, che giấu, đùm bọc.
Đầu năm 1967, Liên đoàn nữ Phật tử - một tổ chức công khai của Ban Phụ vận được thành lập do chị Nguyễn Thị Hoan là Liên đoàn trưởng với mục tiêu vận động phụ nữ đấu tranh đòi hòa bình, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ, chống văn hóa đồi trụy lai căng. Liên đoàn đã tổ chức được các chi đoàn trong thành phố Sài Gòn – Gia Định mà nhiều nhất là ở Quận 3 gồm các chi đoàn trong đó có chợ Bàn Cờ. Liên đoàn đã huy động được nhiều tầng lớp phụ nữ tham gia hưởng ứng.
Đến ngày 26/6/1967, Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ ra đời. Hội đã thu hút, tập hợp được đông đảo quần chúng phụ nữ, từ chị em công nhân các xí nghiệp, lao động các ngành nghề, học sinh sinh viên, trí thức… Chị em bạn hàng buôn bán ở các chợ Bàn Cờ, Vườn Chuối, Bến Thành, Tân Định … đấu tranh liên tục chống đuổi chỗ, chống phạt vạ, chống cảnh sát ngụy quyền lăng nhục chị em.
Trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ngay sau khi được Quận ủy triển khai Nghị quyết “Tổng tấn công”, đoàn thể phụ nữ đã khẩn trương chuẩn bị tài chính, thuốc men, vũ khí, may cờ, khẩu hiệu, truyền đơn và xây dựng các tổ chức nòng cốt chờ nổi dậy. Cánh phụ vận chuẩn bị hầm vũ khí tại nhà chị Trần Thị Ngọc Sương tại số 51/10/14 Cao Thắng và là nơi gặp gỡ hội họp của Ban phụ vận Thành phố. Chị em phụ nữ vùng Bàn Cờ đã sử dụng trường Phan Đình Phùng (số 491/7 Nguyễn Đình Chiểu) làm trạm cứu thương cho bộ đội và dân tỵ nạn, dưới danh nghĩa là trại tiếp cư. Chị Trần Thị Kiêm, Trần Hữu Hạnh, Đoàn Thị Bờ… là những người đã trực tiếp chỉ đạo việc chăm sóc thương binh và quyên góp thuốc men gửi về trạm cấp cứu của ta ở Linh Xuân, Thủ Đức. Bất chấp lệnh giới nghiêm, đồng bào khu vực cư xá Đô Thành, Nguyễn Thiện Thuật ủng hộ cách mạng, ngăn chặn bước tiến của địch bằng cách lăn thùng phuy, cây cối, bàn ghế ra đường làm chướng ngại vật. Chị em phụ nữ khu vực Bàn cờ tổ chức nấu xôi, bánh tét để trước nhà, bề ngoài là để ăn Tết nhưng thực sự là để tiếp tế lương thực cho các mũi tấn công. Nhiều chị còn đưa con em mình gia nhập quân giải phóng. Qua cuộc tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã thể hiện rõ tấm lòng của người dân thành phố, đặc biệt là chị em phụ nữ vùng Bàn Cờ đối với cách mạng. Các chị vừa trực tiếp tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang tấn công vào các mục tiêu của địch.
Trong năm 1968, để phát huy thanh thế cho cách mạng, Ban phụ vận đã chủ trương phối hợp với các đơn vị mở cuộc tuyên truyền xung phong đột xuất. Trong vòng 2 tuần lễ, đơn vị được phân công đã phân phát 30.000 truyền đơn, 3.500 thơ chúc tết của Hồ Chủ Tịch. Thiệp chúc Tết đã được đưa tận tay bà con các chợ Hòa Bình, Bàn Cờ, Vườn Chuối… làm nức lòng các má, các chị. Trong phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ diễn ra liên tục thời kỳ này, bên cạnh các cuộc đấu tranh tập trung và quy mô của công nhân, lao động dựa trên danh nghĩa nghiệp đoàn đòi tăng lương, giảm giờ làm là các cuộc đấu tranh hàng ngày của chị em phụ nữ tiểu thương các chợ đòi giảm tiền chỗ, chống phạt vạ, chống những tên cảnh sát ngược đãi, hành hung bạn hàng chợ, đảm bảo các điều kiện về điện, nước, vệ sinh. Ngoài việc trực tiếp đấu tranh với các cấp ngụy quyền để bảo vệ, giành lại các quyền lợi thiết thân, chị em tiểu thương luôn hỗ trợ đắc lực về mặt tinh thần, vật chất cho phong trào đấu tranh của các giới công nhân lao động, học sinh, sinh viên và phong trào Phật giáo.
Đó cũng là lúc chính quyền Sài Gòn tăng thuế ồ ạt để nuôi bộ máy chiến tranh khổng lồ. Bước vào cuộc đấu tranh mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào phụ nữ tiếp tục được xây dựng và củng cố. Đêm 20/4/1970, sau khi đồng bào làm lễ truy điệu các Việt kiều Campuchia bị bọn Lonnol, Sirik, Matak sát hại, thả xác trôi trên sông Mêkông tại Đại học Khoa học (đường Nguyễn Văn Cừ), 126 học sinh, sinh viên đã bí mật tổ chức biểu tình, bất ngờ ập vào chiếm tòa Đại sứ của Lonnol (góc Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng), yêu cầu ngụy quyền phải can thiệp với Đại sứ Lonnol chấm dứt ngay việc khủng bố, sát hại Việt Kiều. Ngay lập tức, cảnh sát, mật vụ tràn vào bao vây tòa Đại sứ bằng những hàng rào kẽm gai dày đặc, quyết tâm cô lập cả khu vực, cắt đứt sự chi viện từ bên ngoài nhằm làm nhụt ý chí đấu tranh của sinh viên, học sinh yêu nước. Nhận được tin, những người mẹ Bàn Cờ, Vườn Chuối đã nấu cơm, nấu nước, huy động chị em phụ nữ bán hàng ở các chợ để chuẩn bị thức ăn, bánh trái. Các mẹ bí mật vận động các gia đình có nhà sát vách tòa đại sứ đục tường chuyền từng nắm cơm. Những người mẹ, người chị Bàn Cờ trong cuộc chiến đấu giữa lòng Sài Gòn đã trở thành những anh hùng bất tử với non sông đất nước mà bài thơ “Bà Mẹ Bàn Cờ” của nhà thơ Nguyễn Kim Ngân thực sự là một tượng đài về những nữ anh hùng ấy.
Năm 1975, để chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chị em phụ nữ vùng Bàn cờ vận động bà con may cờ, chuẩn bị chu đáo lương thực, thực phẩm, thuốc men… đón bộ đội vào giải phóng thành phố. Ngày 30/04/1975, quân và dân ta đã đồng loạt nổi dậy chiến đấu giành chính quyền về tay nhân dân, kết thúc sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Với các thành tích đặc biệt xuất sắc, Bác Hồ và Trung ương Đảng tặng Bức trướng cho Phụ nữ miền nam “Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đảng”.