Mời góp ý dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII

BTC
19/01/2022 - 10:27
Mời góp ý dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII

Biểu trưng (logo) Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII

Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII là sự kiện chính trị quan trọng, là ngày hội lớn của phụ nữ cả nước, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình đổi mới mạnh mẽ, toàn diện hoạt động của tổ chức Hội và đánh dấu sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động của các tầng lớp phụ nữ vào quá trình hội nhập và phát triển của đất nước.

Đại hội có nhiệm vụ đánh giá phong trào phụ nữ và hoạt động Hội năm năm qua và đề ra phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2022 - 2027. Đại hội dự kiến diễn ra vào tháng 3/2022. 

Để báo cáo chính trị trình Đại hội đánh giá đúng kết quả phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội trong nhiệm kỳ qua, cũng như xây dựng phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ tới bám sát các văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác phụ nữ và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bảo đảm lợi ích của tổ chức hội, hội viên, phụ nữ gắn với lợi ích quốc gia, dân tộc; tập trung giải quyết những vấn đề mới, khó, được xã hội và phụ nữ quan tâm theo tinh thần Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 28/7/2020 của Ban Bí thư về lãnh đạo Đại hội đại biểu phụ nữ các cấp và Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII nhiệm kỳ 2022-2027, Ban Tổ chức Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2022 - 2027 công bố Dự thảo Báo cáo chính trị để xin ý kiến đóng góp của hội viên, phụ nữ và nhân dân.

Ý kiến đóng góp xin gửi về: Phòng Tổng hợp, Văn phòng Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, 68 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội hoặc email: phongtonghoptwhoi@gmail.com trước ngày 15/02/2022.

Tải về tóm tắt Báo cáo TẠI ĐÂY

Báo cáo chính trị gồm 2 phần: Phần thứ nhất: Đánh giá kết quả phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam nhiệm kỳ 2017 - 2022 và Phần thứ hai: Phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2022 - 2027.

Để thuận lợi cho hội viên, phụ nữ và nhân dân tập trung đóng góp vào phương hướng hoạt động Hội trong thời gian tới, Ban Tổ chức đăng tóm tắt phần thứ nhất và đăng toàn văn phần thứ hai.

Mời góp ý dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII - Ảnh 2.

Bà Hà Thị Nga (thứ 3 từ phải sang), Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, tặng Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh Sơn La bức tranh gạo biểu trưng Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc XIII. Sơn La là địa phương đầu tiên trong cả nước tổ chức Đại hội đại biểu cấp tỉnh.

TÓM TẮT DỰ THẢO

Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2022-2027

PHẦN THỨ NHẤT

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHONG TRÀO PHỤ NỮ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM NHIỆM KỲ 2017 - 2022 

(Tóm tắt những điểm nổi bật)

Năm năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp phụ nữ đã đoàn kết, kiên cường, nỗ lực góp phần tạo nên những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới có những tiến bộ rõ nét[1], tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ khẳng định phẩm chất tốt đẹp, tiềm năng to lớn và vai trò quan trọng trong gia đình, xã hội. Có thể kể đến năm điểm nổi bật của phong trào phụ nữ nhiệm kỳ qua như sau:

Một là, các tầng lớp phụ nữ đã nỗ lực vượt khó, sáng tạo vươn lên, mạnh dạn ứng dụng khoa học công nghệ, phát huy vai trò làm chủ, tham gia tích cực vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên mọi lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế, lực lượng lao động nữ, nữ doanh nhân đã đóng góp đáng kể vào thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới, chương trình quốc gia khởi nghiệp, góp phần khẳng định chất lượng và khả năng cạnh trạnh của sản phẩm Việt trên thị trường quốc tế.   

Hai là, với nỗ lực quyết tâm của cả hệ thống chính trị, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước, đặc biệt, lần đầu tiên kể từ khi đất nước thực hiện công cuộc Đổi mới, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 30%, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước. Phụ nữ ngày càng ý thức được trách nhiệm và quyền công dân, phát huy quyền làm chủ, tham gia tích cực trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.

Ba là, phụ nữ tiếp tục thực hiện tốt thiên chức người mẹ, người thầy đầu tiên của con người, là điểm tựa tinh thần, gắn kết yêu thương và chia sẻ trách nhiệm chăm lo xây dựng gia đình. Bằng tình yêu thương và trách nhiệm, phụ nữ đã trao truyền các giá trị văn hóa gia đình, đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc

Bốn là, trong bối cảnh thiên tai khắc nghiệt và dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, phụ nữ cả nước bằng tấm lòng yêu thương, nhân ái, đã phát huy cao độ trách nhiệm công dân, tham gia trên mọi mặt trận góp phần thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, ổn định cuộc sống.

Năm là, trong tiến trình hội nhập toàn diện của đất nước, phụ nữ trong lực lượng vũ trang và lĩnh vực đối ngoại tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, góp phần không nhỏ vào công cuộc bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh đất nước, khẳng định cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín của Việt Nam như một thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.  

Có thể khẳng định, năm năm qua, phụ nữ Việt Nam, dù thuộc dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, nơi công tác, cư trú, lứa tuổi nào cũng luôn đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy truyền thống tốt đẹp, chủ động, sáng tạo hưởng ứng các phong trào thi đua của đất nước, hăng hái tham gia các chương trình mục tiêu quốc gia; chăm lo, vun đắp hạnh phúc gia đình; nỗ lực vươn lên khẳng định vai trò, vị thế to lớn của phụ nữ trong đời sống xã hội. Sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ là minh chứng sinh động về thành quả bình đẳng giới, tôn trọng quyền con người, quyền công dân, nỗ lực thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh, các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) của nước ta.

Đối với việc thực hiện nhiệm vụ công tác Hội, nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước diễn biến nhanh, phức tạp, có những vấn đề phát sinh chưa có trong tiền lệ, Hội LHPN các cấp đã nhanh chóng thích ứng, sáng tạo, linh hoạt đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh để đoàn kết, tập hợp các tầng lớp phụ nữ triển khai thắng lợi phong trào thi đua, các cuộc vận động và nhiệm vụ công tác Hội, góp phần nâng cao chất lượng đời sống mọi mặt cho hội viên, phụ nữ. Có thể khái quát ở tám kết quả nổi bật như sau:

Một là, công tác tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ rèn luyện phẩm chất đạo đức "Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang" gắn với học tập, làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục được đổi mới với nhiều hình thức và mô hình phong phú, tạo thành thói quen, việc làm thường xuyên của cán bộ, hội viên, phụ nữ với hàng vạn tấm gương tiêu biểu học và làm theo Bác. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, các cấp Hội đã thích ứng linh hoạt bằng việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong nắm tình hình tư tưởng, truyền thông, vận động xã hội, phổ biến, giáo dục pháp luật… đến hàng chục triệu hội viên, phụ nữ cà nước.

Hai là, công tác tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, trọng tâm là cuộc vận động "Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch" được triển khai đồng bộ, toàn diện, đã đóng góp đáng kể vào kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đáng chú ý, các tiêu chí "3 sạch" gắn với hàng chục ngàn công trình/phần việc giữ gìn, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu do các chi Hội/tổ Phụ nữ đảm nhiệm được triển khai linh hoạt, rộng khắp, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và khẳng định vai trò của tổ chức Hội ở cơ sở.

Ba là, với chủ đề "An toàn cho phụ nữ và trẻ em" xuyên suốt trong phần lớn nhiệm kỳ, các cấp Hội đã triển khai nhiều mô hình, hoạt động góp phần nâng cao trách nhiệm của xã hội và gia đình chung tay xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh. Hoạt động phối hợp trong tham gia giải quyết các vụ việc xâm hại và bạo lực nghiêm trọng đối với phụ nữ và trẻ em có chuyển biến rõ rệt và thực chất. Trong nhiệm kỳ đã ký kết phối hợp với 30 bộ/ngành, các cơ quan/tổ chức, trong đó có nhiều chương trình phối hợp để bảo vệ quyền của phụ nữ trẻ em, tạo nguồn lực cho các cấp Hội thực hiện nhiệm vụ chính trị và tăng cường lồng ghép giới trong tổ chức triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước.

Bốn là, Các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế được triển khai theo hướng tập trung đồng bộ các giải pháp, các nguồn lực, phát huy được nội lực của hội viên, phụ nữ, tiềm năng thế mạnh của từng địa phương, phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Thông qua các mô hình sinh kế tạo việc làm tại chỗ, mô hình hỗ trợ có điều kiện, các hoạt động tiết kiệm tại chi Hội/tổ Phụ nữ, các cấp Hội đã giúp 1,8 triệu hộ nghèo, trong đó 230.951 hộ thoát nghèo theo tiêu chí đa chiều. Với tinh thần quốc gia khởi nghiệp, Đề án "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025" đã thúc đẩy sự chủ động, sáng tạo của các cấp Hội trong tổ chức Ngày Phụ nữ khởi nghiệp, đề xuất các đề án/chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, đáp ứng khát vọng khởi nghiệp của phụ nữ thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi.

Năm là, nội dung, phương thức hoạt động của các cấp Hội tiếp tục được đổi mới, hướng mạnh về cơ sở, chú trọng địa bàn có tỷ lệ tập hợp hội viên thấp, nâng cao chất lượng tổ chức Hội cơ sở. Bên cạnh mô hình tập hợp phụ nữ theo địa bàn hành chính, nhiều nơi đã mạnh dạn triển khai nhiều mô hình tập hợp phụ nữ theo lứa tuổi, sở thích, ngành nghể; thu hút phụ nữ tham gia hoạt động Hội thông qua nền tảng mạng xã hội. Từ đó góp phần tăng hơn 2 triệu hội viên và giảm 1.029 cơ sở có tỷ lệ tập hợp dưới 50% phụ nữ tham gia tổ chức Hội trong nhiệm kỳ. Đặc biệt trong bối cảnh sắp xếp lại các đơn vị hành chính và yêu cầu tỉnh giản biên chế, các cấp Hội đã chú trọng kiện toàn bộ máy cơ quan chuyên trách, cải tiến phương pháp làm việc, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ Hội các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Sáu là, công tác tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, giám sát và phản biện xã hội, tham mưu, đề xuất chính sách của các cấp Hội ngày càng đi vào thực chất, tiệm cận với nhu cầu thiết thân của phụ nữ. Công tác phản biện xã hội đối với các dự thảo chính sách, luật pháp ngày càng có chất lượng, dựa trên bằng chứng khoa học, khảo sát thực tiễn, tham vấn các đối tượng hưởng lợi/bị tác động. Hội Liên hiệp Phụ nữ một số tỉnh/thành phố đã chủ động tham mưu tổ chức đối thoại với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để nắm bắt và giải quyết kịp thời các bức xúc, kiến nghị chính đáng của hội viên, phụ nữ. Đây thực sự là diễn đàn thực hành dân chủ, tạo sự đồng thuận, gắn kết "ý Đảng, lòng dân", thể hiện trách nhiệm của các cấp Hội trong phát huy quyền dân chủ trực tiếp của phụ nữ.

Bảy là, công tác đối ngoại nhân dân và hợp tác quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu. Hội đã có nhiều sáng kiến thể hiện tình đoàn kết quốc tế, chủ động, khéo léo tham gia đấu tranh, vận động bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc tại các cơ chế quốc tế, góp phần thúc đẩy cam kết hành động thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, tiến bộ của phụ nữ. Trong nhiệm kỳ đã vận động được 8 triệu đô la Mỹ cho các mô hình hoạt động mới và nâng cao năng lực cán bộ. Nghị quyết Hỗ trợ phụ nữ hội nhập quốc tế lần đầu tiên được ban hành là cơ sở quan trọng trong mở rộng quan hệ đối tác, đáp ứng yêu cầu công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới.

Tám là, trong nhiệm kỳ, Trung ương Hội đã tham mưu đề xuất thành công 03 Đề án của Chính phủ, cụ thể hóa nội dung hỗ trợ phụ nữ trong 02 chương trình mục tiêu quốc gia và tiếp tục tham mưu, đề xuất xây dựng hơn 500 chính sách trong nhiều lĩnh vực thiết thân đối với phụ nữ, qua đó huy động nguồn lực và sự tham gia của các cấp, các ngành vào công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Đặc biệt lần đầu tiên Hội được phân công xây dựng và chủ trì triển khai một dự án về thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em trong chương trình mục tiêu quốc gia "Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2030" đã khẳng định vai trò nòng cốt của tổ chức Hội trong thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và phát triển của phụ nữ.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác Hội và phong trào phụ nữ còn một số hạn chế, khó khăn.

Thứ nhất, phong trào phụ nữ chưa đồng đều trên mọi lĩnh vực, vùng miền, đối tượng, chưa khơi dậy và phát huy đầy đủ tiềm năng, sức sáng tạo của một bộ phận phụ nữ, nhất là phụ nữ có tầm ảnh hưởng, phụ nữ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.

Thứ hai, đời sống vật chất, tinh thần của một bộ phận phụ nữ còn khó khăn, nhất là ảnh hưởng của dịch bệnh, biến đổi khí hậu tác động đến nhóm phụ nữ di cư, buôn bán nhỏ, dân tộc thiểu số, phụ nữ trong các ngành dịch vụ, sinh sống ở khu vực dễ bị thiên tai…; tỷ lệ phụ nữ nông thôn được đào tạo nghề còn thấp; phụ nữ lao động ở khu vực kinh tế phi chính thức còn chiếm số lượng khá lớn, khó tiếp cận các dịch vụ công và việc làm ổn định, dễ bị tổn thương, thu nhập bấp bênh, cuộc sống khó khăn. Môi trường sống an toàn cho phụ nữ và trẻ em có mặt còn chưa bảo đảm; môi trường gia đình thiếu ổn định; tình trạng mất an toàn vệ sinh thực phẩm, bạo lực với phụ nữ, buôn bán phụ nữ, xâm hại trẻ em đáng báo động; tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội có tăng nhưng còn thấp.

Thứ ba, một bộ phận phụ nữ chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động; còn tình trạng phụ nữ thiếu hiểu biết pháp luật, sa vào tệ nạn xã hội, suy thoái về đạo đức lối sống, rời xa trách nhiệm với gia đình và xã hội.

Thứ tư, đối với công tác Hội, việc cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước trong một số lĩnh vực, đối tượng phụ nữ của Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản trong nhận thức và hành động bảo vệ an toàn cho phụ nữ và trẻ em. Ở một số nơi, cách thức tổ chức phong trào thi đua, cuộc vận động chưa hấp dẫn, thiết thực đối với phụ nữ, còn biểu hiện hình thức. Công tác tuyên truyền, giáo dục, xây dựng người phụ nữ phát triển toàn diện chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội và nhu cầu của phụ nữ. Công tác nắm bắt tình hình, tư tưởng, đời sống, việc làm của hội viên, phụ nữ tại một số địa phương chưa kịp thời, sâu sát. Hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội còn chưa được như kỳ vọng. Một số mô hình hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, phát triển kinh tế, nhất là kinh tế hợp tác chưa thực sự bền vững.

Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân chủ quan là: một bộ phận phụ nữ còn tự ti, an phận, thiếu ý chí vươn lên; một số cán bộ chưa bắt kịp với sự phát triển của xã hội và nhu cầu của phụ nữ, chậm thích ứng với những thay đổi về tổ chức bộ máy; năng lực phát hiện vấn đề, kỹ năng giám sát, phản biện xã hội còn hạn chế; công tác nghiên cứu chưa nhận diện đầy đủ những vấn đề của phụ nữ và công tác phụ nữ. Về nguyên nhân khách quan, một số văn bản chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ, bình đẳng giới còn thiếu đồng bộ, chưa bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới; khoảng cách giới ở một số đối tượng, vùng miền vẫn là những thách thức; nhận thức xã hội và của bản thân phụ nữ về bình đẳng giới chưa đầy đủ; mặt trái của kinh tế thị trường, thiên tai, dịch bệnh tác động không nhỏ đến nhận thức, lối sống, chất lượng cuộc sống của phụ nữ, mối quan hệ gia đình; nguồn lực hoạt động của Hội, đặc biệt ở cấp cơ sở còn hạn chế.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Một là, bám sát và cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiên trì sứ mệnh "Đoàn kết, tập hợp các tầng lớp phụ nữ Việt Nam vì hạnh phúc của phụ nữ và sự thịnh vượng của đất nước" là nền tảng quan trọng định hướng công tác Hội và phong trào phụ nữ, đổi mới nội dung, phương thức thực hiện chức năng đại diện; lựa chọn những vấn đề thiết thân của phụ nữ, gia đình, bình đẳng giới… làm trọng tâm ưu tiên trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện.

Hai là, phát huy vai trò chủ thể của hội viên, phụ nữ với tư cách là nhân tố sống còn của tổ chức Hội. Một mặt, phải khơi dậy ý chí tự lập, khát vọng vươn lên, tinh thần chủ động giải quyết các vấn đề của bản thân, của gia đình để thực hiện tốt nghĩa vụ công dân và trách nhiệm xã hội. Mặt khác, phải lấy quyền lợi chính đáng, sự tiến bộ của các tầng lớp phụ nữ làm mục tiêu phấn đấu và lấy sự hài lòng của phụ nữ làm thước đo kết quả hoạt động Hội.

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh, năng lực, trách nhiệm, có phương pháp công tác dân vận khéo là nhân tố chủ chốt, quyết định hiệu quả phong trào thi đua, các cuộc vận động và nhiệm vụ công tác Hội. Phát huy vai trò đoàn kết, dẫn dắt, khơi dậy sức sáng tạo, cống hiến của Ban Chấp hành, người đứng đầu các cấp Hội; khuyến khích động viên đội ngũ chi hội trưởng, người có uy tín, ảnh hưởng trong cộng đồng tham gia công tác Hội.

Bốn là, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và nắm bắt tình hình tư tưởng, đời sống, việc làm của hội viên, phụ nữ; nâng cao hiệu quả thực chất công tác tham mưu, đề xuất chính sách, giám sát và phản biện xã hội là nhiệm vụ cơ bản để thực hiện chức năng đại diện và vai trò nòng cốt chính trị của tổ chức Hội; coi trọng tổng kết thực tiễn nghiên cứu lý luận, sử dụng đội ngũ chuyên gia trong quá trình hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới.

Năm là, huy động nguồn lực tổng hợp từ các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước là yếu tố quan trọng để đổi mới phương thức hoạt động Hội. Các nhiệm vụ công tác Hội, các vấn đề của phụ nữ, gia đình, trẻ em phải được lồng ghép vào các chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu công tác phụ nữ, các mục tiêu bình đẳng giới.

Mời góp ý dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII - Ảnh 3.

Thừa ủy quyền lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng trao Huân chương Lao động hạng Nhất cho Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố Hà Nội.

 

PHẦN THỨ HAI PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ 

NHIỆM KỲ 2022 - 2027

I. BỐI CẢNH

Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới và khu vực; cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ; thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu trong nỗ lực của các quốc gia và cộng đồng quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, triển vọng phục hồi của kinh tế, thương mại toàn cầu tiềm ẩn nhiều rủi ro; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là cạnh tranh thương mại, công nghệ tiếp tục gay gắt; ứng phó với các thách thức toàn cầu, an ninh phi truyền thống, nhất là biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, an ninh mạng trở thành mối quan tâm chung của toàn thế giới.

Ở trong nước, các thành tựu kinh tế - xã hội sau hơn 35 năm đổi mới tiếp tục tạo tiền đề nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế; tinh thần đoàn kết dân tộc, khát vọng phát triển ngày càng được khơi dậy mạnh mẽ. Việt Nam chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương. Nhiều khó khăn, thách thức chưa từng có tiền lệ do đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu; tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng mạnh; biến đổi khí hậu gay gắt, phức tạp; xu hướng già hóa dân số; bất bình đẳng giới còn tồn tại. Bối cảnh đó sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống, sự phát triển của phụ nữ và hoạt động Hội.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo nhiều việc làm thu nhập cao hơn, nhưng nguy cơ mất việc làm cũng ngày càng tăng, nhất là đối với bộ phận lao động nữ có trình độ học vấn, chuyên môn hạn chế, thiếu kỹ năng và khả năng thích ứng nghề nghiệp. Sự phát triển của công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, các phương thức truyền thông hiện đại… đáp ứng tốt hơn nhu cầu, khả năng tiếp cận thông tin của phụ nữ, nhưng cũng đặt ra thách thức lớn cho phụ nữ trong việc tiếp nhận, làm chủ thông tin cũng như đối với công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ.

Tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế khơi dậy tiềm năng sáng tạo, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Tuy nhiên, khoảng cách giàu nghèo gia tăng và mức độ thụ hưởng các thành quả kinh tế - xã hội giữa các nhóm phụ nữ không đồng đều, nhất là phụ nữ ở vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo, phụ nữ là người dân tộc thiểu số, phụ nữ khuyết tật, đơn thân, cao tuổi, lao động nữ di cư, chuyển đổi nghề. Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới tạo cơ hội tốt hơn cho Việt Nam tham gia nền kinh tế quốc tế, nhưng cũng đặt ra thách thức về năng lực cạnh tranh cho doanh nhân nữ.

Xu hướng dân chủ hóa mọi hoạt động của đời sống xã hội ngày càng mạnh mẽ, dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện ngày càng được mở rộng, vừa tạo điều kiện, vừa thúc đẩy phụ nữ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức chính trị, trách nhiệm công dân, song cũng kèm theo nguy cơ phụ nữ dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo. Việc tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền của phụ nữ và trẻ em gái, về bình đẳng giới sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạch định và thực thi chính sách về phụ nữ và trẻ em. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức hoạt động vì phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới đặt ra yêu cầu đẩy mạnh vai trò kết nối, định hướng trong công tác phụ nữ của tổ chức Hội.

Các chủ trương, chính sách pháp luật liên quan đã tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ, tuy nhiên, còn nhiều vấn đề xã hội ảnh hưởng tiêu cực đến phụ nữ cần tiếp tục quan tâm: Đói nghèo, biến đổi khí hậu, thay đổi chức năng gia đình; bạo lực gia đình, ma túy, mại dâm, lây nhiễm HIV/AIDS, đặc biệt là xâm hại tình dục phụ nữ, trẻ em ngày càng tinh vi, phức tạp; sự gia tăng các loại tội phạm mới, tội phạm công nghệ cao, "mua bán bào thai" đang đe dọa đến sự an toàn của phụ nữ và trẻ em.

Trước yêu cầu về việc thực hiện vai trò nòng cốt chính trị trong bối cảnh tình hình mới, đòi hỏi tổ chức Hội tất yếu phải đẩy mạnh hoàn thiện tổ chức bộ máy, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động.

II. QUAN ĐIỂM

1. Bám sát, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực tiễn và yêu cầu của phong trào phụ nữ trong giai đoạn mới, là cơ sở cho việc đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động Hội, thực hiện chức năng đại diện, vai trò nòng cốt chính trị trong công tác phụ nữ của tổ chức Hội.

2. Lấy việc phát huy vai trò chủ thể, tiềm năng, thế mạnh, ý chí tự lực, tự cường của phụ nữ, đồng thời chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng, đồng hành giải quyết các vấn đề thiết thân của phụ nữ là nhiệm vụ xuyên suốt; lấy hạnh phúc và lợi ích của phụ nữ là mục tiêu; lấy sự hài lòng của phụ nữ là thước đo chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức Hội.

3. Tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, chủ động tham mưu, đề xuất hoàn thiện luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới, thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Hội.

4. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đẩy mạnh hội nhập quốc tế; mở rộng tính liên hiệp, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện là nhiệm vụ then chốt để xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả.

5. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, sáng tạo, tâm huyết, trách nhiệm, giỏi vận động phụ nữ, có khát vọng cống hiến là nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Hội.

III. MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU

1. Mục tiêu

Phát huy truyền thống, tinh thần đoàn kết, sáng tạo, chủ động hội nhập, ý thức làm chủ của các tầng lớp phụ nữ; xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, tích cực xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ. Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, khẳng định vị thế tổ chức tiên phong hành động vì hạnh phúc của phụ nữ, có tầm ảnh hưởng trong khu vực và quốc tế; góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước.

2. Chỉ tiêu chủ yếu nhiệm kỳ 2022 - 2027

Hằng năm, mỗi cơ sở Hội duy trì thường xuyên ít nhất 01 loại hình hoạt động để vận động phụ nữ nâng cao kiến thức, trau dồi đạo đức, rèn luyện sức khỏe. Hằng năm giúp 33.500 hộ có phụ nữ thoát nghèo, thoát cận nghèo; hỗ trợ nâng cao năng lực cho 17.000 phụ nữ là chủ doanh nghiệp, quản lý hợp tác xã, chủ hộ kinh doanh; đến cuối nhiệm kỳ, vận động, hỗ trợ thành lập mới 350 hợp tác xã có phụ nữ tham gia quản lý. Đến cuối nhiệm kỳ, các cấp Hội hỗ trợ 80% phụ nữ, trẻ em gái là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân mua bán người trở về được phát hiện tiếp cận ít nhất một dịch vụ trợ giúp xã hội. Hằng năm, mỗi cơ sở Hội vận động, hỗ trợ thêm 05 hộ gia đình đạt tiêu chí "gia đình 5 không, 3 sạch" hoặc "gia đình 5 có[2], 3 sạch" (đối với địa bàn xây dựng nông thôn mới nâng cao/kiểu mẫu), phấn đấu cả nước giúp được thêm 55.000 hộ gia đình đạt 8 tiêu chí; mỗi cơ sở Hội đăng ký và thực hiện 01 công trình/phần việc góp phần xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh. Đến cuối nhiệm kỳ, tăng thêm 800.000 hội viên; phấn đấu 100% cơ sở Hội tập hợp được trên 50% phụ nữ có mặt tại địa bàn. Đến cuối nhiệm kỳ, 100% cán bộ Hội chuyên trách các cấp sử dụng thành thạo các phần mềm cơ bản trong công tác Hội; 100% chi hội trưởng được tập huấn nghiệp vụ công tác Hội. Hằng năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp TW và cấp tỉnh chủ trì giám sát ít nhất 01 chính sách và phản biện xã hội ít nhất 01 dự thảo văn bản liên quan đến phụ nữ, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và tổ chức Hội; mỗi Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp huyện, cấp xã giám sát ít nhất 01 chính sách và góp ý ít nhất 01 dự thảo văn bản của cấp ủy, chính quyền. Đến cuối nhiệm kỳ, Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp TW đề xuất thành công ít nhất 05 chính sách, đề án; Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh đề xuất thành công ít nhất 01 chính sách, đề án liên quan đến phụ nữ.

IV. PHONG TRÀO THI ĐUA, CUỘC VẬN ĐỘNG, KHÂU ĐỘT PHÁ

Trong nhiệm kỳ 2022 - 2027, tập trung phát động cán bộ, hội viên, phụ nữ cả nước thực hiện Phong trào thi đua "Xây dựng người Phụ nữ Việt Nam thời đại mới" (có tri thức, có đạo đức, có sức khỏe, có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội và đất nước), Cuộc vận động "Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch" và hai Khâu đột phá: (1) Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động Hội; (2) Đồng hành xây dựng cơ sở Hội vững mạnh.

V. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM

Nhiệm vụ 1: Hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện, xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh

         1.1. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, hội nhập quốc tế

- Khơi dậy ý chí, khát vọng, tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam; vận động phụ nữ rèn luyện phẩm chất đạo đức "Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang" gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Phát huy vai trò của phụ nữ trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp tục tôn vinh "Áo dài - Di sản văn hóa Việt Nam" trong đời sống xã hội. Tuyên truyền, vận động hội viên, phụ nữ tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động của đất nước, của Hội; nâng cao nhận thức chính trị, ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm công dân; khắc phục biểu hiện an phận, thực dụng, suy thoái đạo đức, lối sống... của một bộ phận phụ nữ.

- Khuyến khích các tầng lớp phụ nữ chủ động học tập, nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Triển khai Chương trình hỗ trợ một triệu phụ nữ nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, tiếp cận Chính phủ số.

- Giáo dục thẩm mỹ, kỹ năng sống, rèn luyện thể chất, nâng cao đời sống tinh thần, triển khai chương trình dân vũ, thể dục, thể thao quần chúng trong hội viên, phụ nữ, hướng đến mỗi phụ nữ lựa chọn một hình thức văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao phù hợp; vận động phụ nữ tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và hỗ trợ phụ nữ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp. Nghiên cứu, vận động, đề xuất chính sách chi trả bảo hiểm y tế cho chi phí tầm soát một số bệnh ung thư thường gặp ở phụ nữ.

- Phát huy tiềm năng, sức sáng tạo của phụ nữ, nhất là phụ nữ lãnh đạo, quản lý, trí thức, văn nghệ sỹ, doanh nhân, phụ nữ tài năng trên các lĩnh vực… Kết nối, thúc đẩy hiện thực hóa các ý tưởng sáng tạo của phụ nữ; phát hiện, bồi dưỡng, tôn vinh tài năng nữ thông qua các Giải thưởng Kovalevskaia, Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam.

- Ứng dụng kết quả đề tài độc lập cấp quốc gia "Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp hỗ trợ và bảo vệ một số nhóm phụ nữ đặc thù" để hỗ trợ phụ nữ khuyết tật, cao tuổi, lao động nữ di cư. Phấn đấu ít nhất 80% phụ nữ khuyết tật được các cấp Hội hỗ trợ bằng các hình thức khác nhau. Tổ chức thực hiện tốt chương trình "Đồng hành cùng phụ nữ biên cương" giai đoạn 2021 - 2025; dự án "Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em", góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia "Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021 - 2030".

- Chủ động, tích cực hỗ trợ phụ nữ hội nhập quốc tế theo hướng phát huy thế mạnh của các nhóm phụ nữ và tổ chức Hội. Kết nối, vận động phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài cùng giữ gìn Tiếng Việt, bản sắc văn hóa, nâng cao tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, hướng về cội nguồn, quê hương, đất nước.

         1.2. Xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; xây dựng môi trường an toàn cho phụ nữ, trẻ em

- Triển khai cuộc vận động "Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch" với các tiêu chí cụ thể, phù hợp, góp phần xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh.

- Nâng cao chất lượng thực hiện các tiêu chí liên quan đến gia đình và bình đẳng giới thuộc nhiệm vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã được phân công trong Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2030; nghiên cứu thí điểm thực hiện tiêu chí "5 có" tại các địa bàn xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và đô thị văn minh. Đề xuất nội dung giáo dục làm cha mẹ trong các chương trình/đề án liên quan của Chính phủ; xây dựng và triển khai bộ tài liệu về giáo dục gia đình, về các giá trị của gia đình Việt Nam; quan tâm các hoạt động giáo dục định hướng cho trẻ em gái; triển khai chương trình "Mẹ đỡ đầu" đối với trẻ em mồ côi và có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đề xuất chính sách/đề án hỗ trợ phụ nữ là lao động di cư có con dưới 36 tháng tuổi gửi trẻ. Tham gia thực hiện có trách nhiệm Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030 của Chính phủ.

- Tiếp tục thực hiện hiệu quả đề án "Tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ" (Đề án 938); tập trung nâng cao kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ về giáo dục đời sống gia đình, giáo dục làm cha mẹ, giáo dục sức khỏe sinh sản, giáo dục tiền hôn nhân; phòng chống bạo lực gia đình, bạo hành trẻ em; vận động xã hội xây dựng cộng đồng an toàn; nhân rộng các mô hình cộng đồng an toàn, làng quê an toàn, phương tiện an toàn cho phụ nữ, trẻ em. Thực hiện Chương trình phối hợp giữa Chính phủ với Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam về tuyên truyền, vận động sản xuất, kinh doanh nông sản thực phẩm chất lượng, an toàn vì sức khỏe cộng đồng, phát triển bền vững giai đoạn 2021 - 2025, trọng tâm là sản xuất an toàn, chế biến an toàn, tiêu dùng an toàn.

- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ thông qua mở rộng các hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; chủ động kết nối với các trung tâm Trợ giúp pháp lý, đường dây nóng, các văn phòng luật sư, mô hình hỗ trợ phụ nữ, trẻ em, chi hội Bảo vệ quyền trẻ em tại địa phương... Thí điểm thực hiện và nhân rộng các mô hình bảo vệ, hỗ trợ phụ nữ và trẻ em, như: Văn phòng Dịch vụ một điểm đến hỗ trợ phụ nữ di cư trở về, Trung tâm một cửa Hỗ trợ phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới, đường dây nóng, Trung tâm tư vấn pháp luật cho phụ nữ, tổ Tư vấn cộng đồng...

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết đơn thư, tập trung năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ và cơ chế kết nối trong hệ thống Hội để kịp thời nắm bắt và giải quyết các vấn đề bức xúc của phụ nữ; kiến nghị, xử lý nghiêm các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em; đẩy mạnh thực hiện cơ chế phối hợp liên ngành, đặc biệt là chương trình phối hợp giữa Hội với các cơ quan tố tụng trong phát hiện, lên tiếng, bảo vệ, kiến nghị, giải quyết các vụ việc liên quan đến phụ nữ và trẻ em.

- Tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức và kỹ năng cho phụ nữ phòng chống thiên tai, dịch bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát huy vai trò đại diện của tổ chức Hội trong các ban chỉ đạo/ban chỉ huy phòng, chống thiên tai các cấp, trọng tâm là "hậu cần tại chỗ" trong phương châm "4 tại chỗ". Đẩy mạnh vai trò của tổ chức Hội trong tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia bảo vệ môi trường, tổ chức Tết trồng cây hàng năm với chủ đề "Phụ nữ vun trồng tương lai" nhằm hưởng ứng Đề án "Trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021 - 2025" của Chính phủ, phân loại rác thải tại nguồn và chống rác thải nhựa.

         1.3. Hỗ trợ nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ

- Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế tập thể, tiếp cận kinh tế số và chủ động tham gia các nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương, đất nước. Hỗ trợ phụ nữ sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, góp phần thực hiện chương trình quốc gia "Mỗi xã một sản phẩm". Chú trọng hỗ trợ thành lập, nâng cao chất lượng hoạt động của hợp tác xã, tổ hợp tác do phụ nữ quản lý; tổ chức các hoạt động nâng cao năng lực cho phụ nữ là chủ doanh nghiệp, quản lý HTX, chủ hộ kinh doanh; hỗ trợ phụ nữ kết nối, tiêu thụ sản phẩm qua các kênh phân phối phù hợp nhu cầu của thị trường. Đề xuất và thực hiện đề án "Hỗ trợ hợp tác xã do phụ nữ tham gia quản lý và tạo việc làm cho lao động nữ giai đoạn 2022 - 2030".

Liên kết với các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp, tổ chức đại diện cộng đồng doanh nghiệp để thúc đẩy hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, trong đó, tập trung ứng dụng công nghệ thông tin, hỗ trợ tham gia thương mại điện tử. Phát huy vai trò, thế mạnh và tăng cường phối hợp giữa Hiệp hội, Hội, Câu lạc bộ Nữ doanh nhân với tổ chức Hội các cấp trong hoạt động phát triển kinh tế.

- Tiếp tục triển khai hiệu quả Đề án "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025" (Đề án 939), mở rộng kết nối, khuyến khích ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ.

- Tuyên truyền vận động phụ nữ phát huy nội lực, hỗ trợ, giúp nhau giảm nghèo bền vững; tiếp tục thực hiện các mô hình tiết kiệm tín dụng, các mô hình sinh kế phù hợp với điều kiện của phụ nữ và ưu tiên phát triển của địa phương, tập trung hỗ trợ phụ nữ thuộc hộ nghèo, phụ nữ dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn. Triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025.

- Nâng cao chất lượng và dư nợ cho vay từ nguồn Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, một số ngân hàng thương mại khác nhằm hỗ trợ phụ nữ tiếp cận tài chính, phát triển kinh tế. Duy trì thành tích là tổ chức đạt "6 nhất" trong hoạt động ủy thác với Ngân hàng Chính sách xã hội.

- Triển khai có chất lượng kế hoạch thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia trong hệ thống Hội, trọng tâm là giáo dục tài chính; hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ tài chính (tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm) cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ khó khăn; phát triển bền vững các chương trình tài chính vi mô trong hệ thống Hội hoạt động chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật. Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng hoạt động của Tổ chức Tài chính vi mô TNHH một thành viên Tình thương (TYM): phấn đấu đến hết nhiệm kỳ, TYM triển khai hoạt động tới 18 tỉnh/thành phố. TW Hội tiếp tục thí điểm tiến tới thành lập đơn vị về bảo hiểm vi mô khi đủ điều kiện.

- Phối hợp, mở rộng liên kết đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm theo nhu cầu của thị trường lao động, tập trung hỗ trợ các nhóm lao động nữ chuyển đổi nghề nghiệp do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Trường Trung cấp Lê Thị Riêng và chức năng dạy nghề của các Trung tâm Vì sự phát triển phụ nữ của trung ương và một số tỉnh.

Nhiệm vụ 2: Tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị; chú trọng giám sát, phản biện xã hội; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới          

2.1. Tuyên truyền, vận động hội viên, phụ nữ thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục phụ nữ về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tập trung Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và một số Chỉ thị, Nghị quyết, pháp luật liên quan; vận động phụ nữ nâng cao ý thức "thượng tôn pháp luật", gương mẫu tuân thủ pháp luật.

- Tiếp tục tổ chức "Ngày Phụ nữ với pháp luật" hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam hằng năm ở các cấp; tuyên truyền, vận động phụ nữ và người thân nâng cao ý thức trách nhiệm trong phòng ngừa tội phạm, tệ nạn xã hội ngay từ trong gia đình; phối hợp với các bộ, ban, ngành nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho phụ nữ, chú trọng các địa bàn "trọng điểm". Đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, như: thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến, phiên tòa giả định, tư vấn pháp luật trực tuyến…

- Tổ chức các diễn đàn đối thoại chính sách, đối thoại với người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền để phụ nữ tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và thực thi các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tạo sự đồng thuận trong xã hội, nhất là những địa bàn tiềm ẩn nhiều nguy cơ phức tạp về an ninh trật tự. Vận động phụ nữ phấn đấu vào Đảng, giới thiệu phụ nữ ưu tú để Đảng kết nạp.

         2.2. Nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đề xuất chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới

- Thường xuyên cập nhật quy định pháp luật, chính sách hiện hành, đồng thời, phát hiện vấn đề từ thực tiễn, các vấn đề thiết thân của phụ nữ để xác định, lựa chọn các nội dung, vấn đề giám sát phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp của từng nhóm phụ nữ, theo từng thời điểm, địa bàn, vùng miền; quan tâm đến các vấn đề mới, vấn đề bức thiết của phụ nữ.

Chú trọng phát huy vai trò đại diện của tổ chức Hội trong các đoàn giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước các cấp; các đoàn giám sát liên ngành việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới. Phát huy vai trò cán bộ Hội là đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp tham gia đề xuất chính sách, giám sát, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em. Khuyến khích cán bộ, hội viên phụ nữ phát hiện, phản ánh các vấn đề bất cập trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án, chính sách tại cơ quan, đơn vị, địa bàn dân cư.

- Chủ động nghiên cứu, dự báo các vấn đề phát sinh trong thực tiễn để kịp thời đề xuất, góp ý, phản biện xã hội, tập trung vào những vấn đề an sinh xã hội cho các nhóm phụ nữ đặc thù, các vấn đề phụ nữ và gia đình trong bối cảnh hội nhập và dịch bệnh Covid-19, vấn đề lao động, việc làm…; phát huy vai trò của đội ngũ chuyên gia, sử dụng kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn để làm bằng chứng, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ngôn luận tạo sự ủng hộ của xã hội đối với các nội dung phản biện xã hội.

- Cấp trung ương và cấp tỉnh bám sát định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV để đảm bảo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; cấp huyện và cấp xã căn cứ chương trình làm việc của cấp ủy và chính quyền địa phương để chủ động đề xuất, góp ý về những vấn đề liên quan đến phụ nữ, gia đình, bình đẳng giới và tổ chức Hội.

- Đẩy mạnh tính chủ động, thống nhất, phối hợp hành động để thực hiện tốt vai trò đại diện của tổ chức Hội trong chu trình xây dựng, thực thi, giám sát chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới. Nâng cao năng lực, kỹ năng và bản lĩnh của cán bộ Hội trong thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội.

         2.3. Thực hành dân chủ cơ sở, thực hiện hiệu quả chức năng đại diện của tổ chức Hội

- Tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát huy quyền làm chủ, thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Vận động phụ nữ chủ động tham gia hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương; tham gia có trách nhiệm các hoạt động đối thoại, giám sát, phản biện xã hội, góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, góp ý cho cán bộ, đảng viên; tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

- Phối hợp hành động với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội để phát huy sức mạnh của nhân dân trong thực hiện các Chương trình, phong trào thi đua của địa phương, đất nước; đa dạng hóa các hình thức, kênh tiếp thu và phản ánh ý kiến nguyện vọng, kiến nghị của phụ nữ, của nhân dân.

- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Hội, nhất là cấp cơ sở trong tổ chức các hoạt động để phụ nữ thực hành dân chủ thực chất; thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa hội viên, phụ nữ với Đảng, chính quyền.

         2.4. Vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới

- Thực hiện tốt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030, tập trung nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới. Phối hợp và phát huy vai trò của Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ các cấp, các ngành thúc đẩy trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và phát triển bền vững.

- Tập trung nghiên cứu và dự báo chiến lược về các vấn đề bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ; xây dựng đội ngũ chuyên gia về công tác phụ nữ và bình đẳng giới của Hội, phát huy đội ngũ chuyên gia bình đẳng giới của các ngành trong vận động xã hội thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới.

- Tham mưu thực hiện công tác cán bộ nữ theo tinh thần Nghị quyết số 11- NQ/TW và Chỉ thị số 21-CT/TW của Ban Bí thư (khóa XII) về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới. Tích cực, chủ động phát hiện, giới thiệu phụ nữ ưu tú, tạo nguồn cán bộ nữ, giới thiệu nhân sự đủ tiêu chuẩn vào quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý… Đề xuất, tham mưu cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và xây dựng nguồn nhân lực nữ chất lượng cao.

- Tổ chức các hoạt động tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực, kỹ năng cho đội ngũ nữ lãnh đạo, quản lý các cấp dưới nhiều hình thức trực tuyến, trực tiếp, ngắn hạn, thường xuyên, cơ bản, nâng cao…; phối hợp xây dựng và triển khai chương trình bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và kỹ năng lồng ghép giới cho 3.500 cán bộ nữ, tập trung vào nữ bổ nhiệm lần đầu, nữ lần đầu tham gia đại biểu dân cử, cán bộ nữ trẻ. Tiếp tục duy trì và nâng cao năng lực, tăng cường sự kết nối của mạng lưới lãnh đạo nữ; phát huy vai trò tiên phong, truyền cảm hứng của đội ngũ nữ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Nhiệm vụ 3: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả, hội nhập quốc tế          

3.1. Phát triển mạng lưới, thu hút hội viên, thành viên

- Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động Hội theo phương châm "ở đâu có phụ nữ, ở đó có hoạt động Hội", tạo môi trường để phụ nữ phát triển bản thân, đóng góp cho cộng đồng, tham gia tổ chức Hội. Trên cơ sở xác định nhu cầu, thế mạnh của các nhóm phụ nữ, sự thay đổi cơ cấu dân cư và giai tầng xã hội, tiếp tục đa dạng hóa các hình thức thu hút, tập hợp phụ nữ; có hoạt động phù hợp với nhóm nữ thanh niên, phụ nữ cao tuổi, phụ nữ đi làm ăn xa, phụ nữ khu vực kinh tế phi chính thức, phụ nữ khu vực đô thị, khu chung cư, khu công nghiệp, phụ nữ tiểu thương, phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ theo tôn giáo, nữ trí thức, nữ doanh nhân.

Nâng cao chất lượng các hoạt động phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, các bộ/ngành nhằm phát huy vai trò nòng cốt của hội viên là nữ cán bộ, công chức, viên chức, công nhân lao động và vai trò xung kích của nữ thanh niên. Phối hợp với tổ chức Công đoàn các cấp phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của các mô hình dành cho nữ công nhân ở khu nhà trọ; phối hợp với tổ chức Đoàn Thanh niên xây dựng và nhân rộng các mô hình CLB Gia đình trẻ, CLB Nữ thanh niên, CLB Tiền hôn nhân…

- Củng cố các mô hình chi Hội, tổ phụ nữ theo địa bàn dân cư; khuyến khích mở rộng các mô hình phù hợp với tình hình thực tế, nhu cầu, sở thích chính đáng của phụ nữ. Các cấp Hội cơ sở chủ động, linh hoạt tổ chức hoạt động hướng đến nhóm phụ nữ tạm trú trên địa bàn. Cán bộ Hội chuyên trách các cấp thực hiện "3 cùng" với chi Hội: "cùng nghe phụ nữ nói, cùng nói cho phụ nữ hiểu, cùng làm cho phụ nữ theo"; thực hiện đồng bộ các biện pháp hỗ trợ cơ sở khó khăn trong công tác tập hợp phụ nữ, phát triển hội viên. Thí điểm các hình thức thu hút, tập hợp phụ nữ trên không gian mạng Internet.

- Tăng cường kết nối, phát huy thế mạnh của hội viên Hội Nữ trí thức Việt Nam, Hiệp hội Nữ doanh nhân Việt Nam trong việc thúc đẩy thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Hỗ trợ các tổ chức thành viên mở rộng mạng lưới ở các cấp. Phối hợp tư vấn, hướng dẫn thành lập và kết nối các tổ chức phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài. Tôn vinh, phát huy tinh thần cống hiến và tầm ảnh hưởng của hội viên danh dự.

- Vận hành đồng bộ trong toàn quốc phần mềm quản lý hội viên; có phương thức nắm bắt tình hình phụ nữ tham gia hoạt động Hội phù hợp với mô hình tập hợp; thí điểm phát hành Thẻ hội viên thông minh.

         3.2. Nâng cao chất lượng cán bộ, kiện toàn bộ máy tổ chức Hội các cấp

- Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội, nhất là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, tư duy đổi mới, có kỹ năng vận động phụ nữ và khả năng thích ứng với thực tiễn, đáp ứng tiêu chuẩn cán bộ, yêu cầu công tác phụ nữ và là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Phát huy vai trò người đứng đầu của tổ chức Hội khi tham gia cấp ủy, cơ quan dân cử và các thiết chế đại diện khác.

- Tổ chức thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ. Chú trọng công tác quy hoạch gắn với đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ Hội theo vị trí việc làm, nhất là cán bộ làm công tác nghiên cứu, giám sát, phản biện xã hội; hình thành đội ngũ chuyên gia về giới và công tác phụ nữ; đề xuất chính sách, cơ chế đào tạo, luân chuyển cán bộ Hội, chú trọng cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc thiểu số để tạo điều kiện cho cán bộ nâng cao năng lực và phát triển. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp và chi Hội trưởng giai đoạn 2019 - 2025 (Đề án 1893); nâng cao năng lực cán bộ Hội về chuyển đổi số và kỹ năng ngoại ngữ.

- Đề cao trách nhiệm của các cấp Hội, đặc biệt là cấp cơ sở, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các chi Hội, tổ phụ nữ. Hỗ trợ, động viên, tôn vinh chi hội trưởng, tổ trưởng tổ phụ nữ, người đứng đầu các tổ, nhóm, mạng lưới phụ nữ triển khai các hoạt động tại cộng đồng; khuyến khích tinh thần tự nguyện đảm nhận nhiệm vụ chi hội trưởng; vận động cán bộ, công chức nghỉ hưu làm chi hội trưởng; bảo đảm địa bàn có đông phụ nữ dân tộc thiểu số, theo tôn giáo có cán bộ Hội là người dân tộc thiểu số và theo tôn giáo; định kỳ tổ chức giao lưu, biểu dương chi hội trưởng tiêu biểu các cấp.

- Phát huy vai trò, sự tham gia hiệu quả của các ủy viên ban chấp hành cơ cấu các ngành, đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên tại cơ sở, chuyên gia, tư vấn cho các lĩnh vực công tác Hội.

- Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy cán bộ cơ quan chuyên trách các cấp theo hướng tinh gọn, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ, kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới và phát triển; tái cơ cấu các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Hội đảm bảo năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu quả.

+ Cơ quan chuyên trách cấp Trung ương: Thực hiện tốt chức năng xây dựng chiến lược, định hướng và chỉ đạo hoạt động; nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách về phụ nữ, công tác phụ nữ và bình đẳng giới; đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của khối văn phòng cơ quan Trung ương Hội và khối các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp.

+ Cơ quan chuyên trách ở địa phương: Sắp xếp bộ máy theo đúng Quy định số 212-QĐ/TW ngày 30/12/2019 của Ban Chấp hành TW Đảng về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan chuyên trách của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh, cấp huyện. Đối với cấp tỉnh, tùy tình hình, có thể hình thành các mô hình tổ chức phù hợp để cung cấp một số dịch vụ liên quan đến phụ nữ, gia đình và bình đẳng giới trên địa bàn.

         3.3. Xây dựng văn hóa tổ chức, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, điều hành bộ máy cơ quan chuyên trách và hệ thống Hội

- Triển khai đồng bộ, nhất quán bộ nhận diện Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hệ thống Hội. Quán triệt, thấm nhuần và lan tỏa các giá trị cốt lõi của tổ chức Hội "Đoàn kết, nhân văn, sáng tạo, khát vọng, phát triển" đến từng cán bộ, hội viên, phụ nữ. Đẩy mạnh truyền thông, quảng bá về tổ chức và hình ảnh người cán bộ Hội trong thời kỳ mới.

- Cơ quan chuyên trách Hội các cấp thực hiện nghiêm cải cách hành chính, hoàn thiện các quy chế, quy định và sử dụng đồng bộ các phần mềm tác nghiệp. Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong điều hành hoạt động Hội cấp trung ương và cấp tỉnh; triệt để phân cấp, phân quyền, phản ứng nhanh, hiệu quả với các vấn đề của phụ nữ.

- Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động Hội gắn với thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước và sự hài lòng của hội viên, phụ nữ. Xây dựng cơ chế đánh giá, kiểm tra, giám sát nội bộ của của cơ quan chuyên trách và cán bộ trong hệ thống Hội.

- Cải tiến mạnh mẽ công tác thi đua, khen thưởng. Xây dựng các tiêu chí thi đua, xác định các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng phù hợp theo hướng mở rộng đối tượng khen thưởng; xã hội hóa nguồn lực cho công tác khen thưởng; rà soát nâng tầm các giải thưởng hiện có cấp trung ương và địa phương; đề xuất Giải thưởng dành cho cán bộ Hội xuất sắc, có hình thức ghi nhận, tôn vinh, khen thưởng phù hợp để khuyến khích sự tham gia của tập thể, cá nhân trong và ngoài nước vì sự tiến bộ của phụ nữ.

            3.4. Nâng cao vị thế, mở rộng ảnh hưởng của tổ chức Hội trong quan hệ đối ngoại

- Phát huy vai trò tổ chức Hội trong đối ngoại nhân dân theo đường lối đối ngoại của Đảng. Thực hiện tốt Nghị quyết "Hỗ trợ phụ nữ hội nhập quốc tế đến năm 2030". Triển khai có hiệu quả các chương trình đoàn kết, hữu nghị và thỏa thuận hợp tác với tổ chức phụ nữ của các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống, các nước đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt Nam; thể hiện vai trò thành viên có trách nhiệm trong Liên đoàn các tổ chức Phụ nữ ASEAN (ACWO), Liên đoàn Phụ nữ dân chủ thế giới (WIDF); vai trò tư vấn đặc biệt tại Hội đồng Kinh tế và Xã hội của Liên hiệp quốc (ECOSOC).

Đa dạng hóa phương thức đối ngoại ở các quy mô, cấp độ khác nhau, phù hợp trong từng thời điểm, tổ chức các hoạt động chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, kỹ năng giải quyết các vấn đề mà phụ nữ quan tâm (bình đẳng giới, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu, phòng ngừa thiên tai, dịch bệnh…); phối hợp bảo vệ quyền lợi và nhân phẩm của phụ nữ Việt Nam trong các quan hệ, giao dịch có yếu tố nước ngoài; kết nối, hỗ trợ thành lập và hỗ trợ hoạt động của các tổ chức phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài.

- Mở rộng tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, phụ nữ Việt Nam và tổ chức Hội; vận động ủng hộ các vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ quyền quốc gia trên các diễn đàn quốc tế và khu vực, thông qua các kênh thông tin đối ngoại, các cơ chế, thể chế quốc tế, các đối tác quốc tế.

Tập trung tuyên truyền đối ngoại trên các nền tảng số, nâng cao chất lượng trang tiếng Anh của Cổng thông tin điện tử của Hội, Trang thông tin Phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài trên báo Phụ nữ Việt Nam, kênh truyền thông của Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, Trung tâm Phụ nữ và Phát triển, các ấn phẩm bằng tiếng nước ngoài của Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam.

- Phối hợp với các cơ quan chuyên trách đối ngoại (Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam), với các cơ quan ngoại giao, các tổ chức quốc tế, các nhóm phụ nữ quốc tế để tăng cường quảng bá văn hóa, kết nối giao thương, khai thác nguồn lực tổ chức các hoạt động cho phụ nữ và bình đẳng giới.

Mời góp ý dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII - Ảnh 4.

Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Văn Nên và Chủ tịch UBND TPHCM Phan Văn Mãi (bìa trái) trao tặng tranh cho Hội LHPN TPHCM tại Đại hội đại biểu Phụ nữ TPHCM. Ảnh: VIỆT DŨNG

 

VI. NHÓM GIẢI PHÁP CHUNG

1. Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức

- Truyền thông, quảng bá phong trào phụ nữ Việt Nam, tổ chức Hội, hình ảnh lãnh đạo, cán bộ Hội và những người phụ nữ có tầm ảnh hưởng, truyền cảm hứng trong xã hội; chỉ đạo truyền thông qua các trang cá nhân của cán bộ/hội viên để tạo sự lan tỏa trong các hoạt động Hội, mỗi cán bộ Hội là một "đại sứ", mỗi hội viên là một tuyên truyền viên về tổ chức Hội; thống nhất sử dụng bộ nhận diện thể hiện tầm nhìn, bản sắc của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đảm bảo tính nhất quán, đồng bộ.

- Kết nối với những người có uy tín, có ảnh hưởng tích cực trong cộng đồng (nhà khoa học, văn nghệ sĩ, nhà báo, chức sắc, chức việc tôn giáo, người có uy tín…), kết hợp với các sự kiện, ngày lễ, hội, ngày truyền thống của địa phương, của đất nước để chia sẻ thông điệp, quan điểm của Hội về các vấn đề liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới.

- Đổi mới hoạt động truyền thông, trọng tâm là đa dạng hóa các sản phẩm và phương thức truyền thông theo nhóm đối tượng, ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong công tác truyền thông. Kết hợp hài hòa giữa tổ chức các chiến dịch truyền thông quy mô lớn diện rộng với các hình thức tuyên truyền, vận động trực tiếp tại các địa bàn theo nhóm đối tượng và chủ đề được phụ nữ và xã hội quan tâm.

- Chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng trung ương và địa phương để đưa các vấn đề của phụ nữ và tổ chức Hội vào các chương trình/chuyên mục thường xuyên. Phối hợp với các đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông, mở rộng kết nối với một số trang/nhóm trên mạng xã hội để đưa thông tin của Hội đến hội viên, phụ nữ và nhân dân bằng các dịch vụ tin nhắn, các ứng dụng trên điện thoại thông minh…

- Phát huy thế mạnh của từng cơ quan truyền thông của Hội, tạo sức mạnh tổng hợp trong công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, đáp ứng xu thế phát triển và nhu cầu của phụ nữ, của tổ chức theo hướng:

+ Cổng Thông tin điện tử của Trung ương Hội cung cấp, tích hợp và quản lý thông tin một cách chính thống; các cổng thông tin điện tử, trang mạng xã hội của các cấp Hội được điều hành một cách chuyên nghiệp, là diễn đàn quan trọng để lắng nghe tâm tư của hội viên, phụ nữ và là nguồn thông tin chính thống cung cấp kiến thức, kỹ năng toàn diện cho hội viên, phụ nữ và nhân dân;

+ Phát triển Báo Phụ nữ Việt Nam trở thành trung tâm truyền thông đa phương tiện về phụ nữ, gia đình và trẻ em; phát triển Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam trở thành nhà xuất bản hàng đầu ở Việt Nam xuất bản sách về phụ nữ, gia đình và trẻ em; bảo tồn truyền thống tốt đẹp và chia sẻ các giá trị tiến bộ của nhân loại; xây dựng Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam trở thành một trong những đơn vị hàng đầu về bảo tàng giới với sứ mệnh nâng cao kiến thức và hiểu biết cho công chúng về lịch sử, truyền thống, di sản văn hóa của phụ nữ Việt Nam.

- Hỗ trợ phụ nữ tiếp cận các dịch vụ công trên nền tảng công nghệ số; sử dụng điện thoại thông minh để tiếp cận thông tin, kiến thức bổ ích theo nhu cầu.

2. Đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành

- Xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án chuyển đổi số Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đến năm 2025, định hướng 2030. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; tiếp tục xây dựng, sử dụng các phần mềm trong triển khai hoạt động Hội. Tích cực vận động các nguồn lực để bảo đảm đến cuối nhiệm kỳ, 100% cơ sở Hội được trang bị máy tính và cán bộ Hội cơ sở sử dụng thành thạo các phần mềm cơ bản phục vụ công tác Hội.

- Triệt để phân cấp, phân quyền, thống nhất và đồng bộ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức theo hướng "Trung ương định hướng chiến lược, Tỉnh vận dụng sáng tạo, Huyện đồng hành cơ sở, Xã nắm chắc hội viên, Chi thấu hiểu phụ nữ".

- Rà soát, điều chỉnh và xây dựng mới các quy định, quy chế hoạt động của cơ quan chuyên trách Hội các cấp phù hợp với yêu cầu ứng dụng công nghệ số trong quản lý, điều hành. Ban hành quy tắc ứng xử, trao đổi thông tin trong các hội, nhóm trên mạng xã hội phục vụ quản lý, điều hành công tác Hội.

3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn

- Tập trung nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu lý luận, góp phần bổ sung lý luận về phụ nữ, công tác phụ nữ và bình đẳng giới, tập trung nghiên cứu những vấn đề mới, khó như: phụ nữ với hội nhập quốc tế; tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh mới, Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư; nội dung, phương thức hoạt động của Hội trong tình hình mới...

Xây dựng Chiến lược nghiên cứu về phụ nữ và bình đẳng giới của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; hoàn thành và sử dụng kết quả đề tài khoa học cấp quốc gia "Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất chính sách cho các nhóm phụ nữ đặc thù" để đề xuất chính sách.

- Tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiên cứu của cán bộ Hội các cấp; tăng cường chia sẻ kết quả nghiên cứu trong và ngoài hệ thống Hội. Kết quả nghiên cứu khoa học là một tiêu chí thi đua của cán bộ chuyên trách cấp tỉnh và trung ương.

- Tăng cường phối hợp với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, các cơ quan, viện nghiên cứu trong và ngoài nước để triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học, hội thảo, trao đổi học thuật về phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới. Phối hợp với Tổng cục Thống kê xây dựng và công bố định kỳ ấn phẩm thống kê quốc gia về giới. Thu thập và số hóa dữ liệu về phụ nữ, bình đẳng giới.

4. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp và vận động nguồn lực

- Thực hiện Quy chế Công tác dân vận của hệ thống chính trị (theo Quyết định 23-QĐ/TW ngày 30/07/2021 của Bộ Chính trị), Nghị định số 56/2012/NĐ-CP ngày 16/7/2012 của Chính phủ[3]; duy trì chế độ làm việc định kỳ giữa Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp với các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

- Rà soát, nâng cao hiệu quả thực chất của công tác phối hợp với các bộ, ngành, các tổ chức; phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội trên nguyên tắc "3 chung" (chung hoạt động, chung đối tượng và chung nguồn lực).

- Chủ động ký kết các chương trình phối hợp đa ngành theo cơ chế đặt hàng để tích hợp nguồn lực tập trung giải quyết các vấn đề của phụ nữ, phù hợp với chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và đáp ứng được nhu cầu của hội viên, phụ nữ.

- Tiếp tục tăng cường vận động nguồn lực từ ngân sách nhà nước bằng cách chủ động nghiên cứu, xây dựng, đề xuất các đề án và tham gia các chương trình mục tiêu quốc gia phù hợp với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đáp ứng được nhu cầu của hội viên, phụ nữ.

- Thí điểm đề xuất cơ chế để các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện các dịch vụ, hoạt động có thu phù hợp với tôn chỉ, mục đích của tổ chức Hội, đáp ứng nhu cầu của hội viên, phụ nữ.

- Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp có uy tín, các doanh nghiệp xã hội phù hợp với sứ mệnh, nhiệm vụ của tổ chức Hội, nhu cầu hội viên, phụ nữ các vùng, miền; xây dựng các thoả thuận hợp tác với các doanh nghiệp để khai thác nguồn trách nhiệm xã hội cho các hoạt động vì sự phát triển và bình đẳng của phụ nữ.

- Vận động, kết nối các cá nhân, tổ chức hoạt động thiện nguyện, doanh nghiệp xã hội trong hỗ trợ phụ nữ yếu thế, phụ nữ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh đột xuất, Quỹ "Tiếp bước cho trẻ em đến trường", "Đồng hành cùng phụ nữ biên cương", mái ấm tình thương...; vận động xã hội hóa nguồn quỹ cho các giải thưởng dành cho phụ nữ.

- Mở rộng quan hệ với các đối tác phụ nữ và bình đẳng giới ở các nước phát triển, các nước đối tác chiến lược và đối tác toàn diện của Việt Nam; các tổ chức, mạng lưới khu vực, các cơ quan Liên hợp quốc và tổ chức quốc tế. Chuyển cách tiếp cận từ hỗ trợ một chiều sang quan hệ hợp tác đối tác cùng giải quyết các vấn đề có tính chiến lược liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới.

*** 

Với tinh thần "Đoàn kết - Sáng tạo - Hội nhập - Phát triển", Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII kêu gọi toàn thể cán bộ, hội viên, phụ nữ cả nước phát huy truyền thống tốt đẹp, tinh thần tự chủ, sáng tạo, hội nhập, khát vọng vươn lên, nắm bắt cơ hội, vượt qua khó khăn thách thức, quyết tâm xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, vì một nước Việt Nam phồn vinh, vì sự tiến bộ, hạnh phúc, bình đẳng của phụ nữ./.


[1] Với chỉ số phát triển giới ở mức 1,003, Việt Nam thuộc nhóm dẫn đầu trong số 5 nhóm gồm 166 nước trên toàn thế giới, xếp thứ 68 trong số 166 nước về chỉ số phát triển giới. Đặc biệt, Việt Nam nằm trong nhóm 1/3 các nước đứng đầu thế giới về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội (Báo cáo số 474/BC-CP của Chính phủ về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2019 và giai đoạn 2011 – 2020 của Chính phủ).

[2] "5 Có" gồm: Có ngôi nhà an toàn; Có sinh kế bền vững; Có sức khỏe; Có kiến thức; Có nếp sống văn hóa.

[3] Quy định trách nhiệm của bộ, ngành, UBND các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước.

Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có
0 bình luận
Xem thêm bình luận

Nhập thông tin của bạn

Đọc thêm