Nguyên mẫu đặc biệt để Lưu Quang Vũ sáng tạo nhân vật chính trong 'Tôi và chúng ta'

29/08/2018 - 19:00
Năm 1970, anh trai tôi là nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ rời quân ngũ trở về. Đó là những năm tháng cực kỳ khó khăn trong cuộc sống của anh.

Kỷ niệm 30 năm ngày mất của Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh (29/8/1988 - 29/8/2018), sáng 29/8, tại thành phố Đà Nẵng, Viện Văn học phối hợp với Đại học Duy Tân tổ chức Hội thảo khoa học “Cuộc đời và sự nghiệp văn học Lưu Quang Vũ”. PNVN đăng tải bài viết của bà Lưu Khánh Thơ - em gái tác giả Lưu Quang Vũ - tham luận tại Hội thảo.

 
Đất nước đang có chiến tranh. Hoàn cảnh riêng của Lưu Quang Vũ cũng nhiều long đong, vất vả. Gia đình riêng đổ vỡ, con trai còn nhỏ, công ăn việc làm chưa có. Mặc dù có chút tên tuổi, được bạn đọc biết đến với tư cách là tác giả tập thơ Hương cây - Bếp lửa (in chung với Bằng Việt, được nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1968), nhưng khi đó bằng cấp, nghề nghiệp chuyên môn không có (đang học dở lớp 10, Lưu Quang Vũ xung phong đi bộ đội và được đặc cách tốt nghiệp phổ thông theo quy chế thời chiến) cộng với một vài điều tiếng nên anh không xin được việc làm.
 
Công ăn việc làm ngày đó gắn với đồng lương và chế độ lương thực, tem phiếu là sự sống còn của mỗi người và gia đình họ. Có thể nói, đó là thời điểm thật bi đát. Lưu Quang Vũ mệt mỏi và buồn bã, không chỉ vì phải vật lộn với cơm áo gạo tiền mà còn vì thất vọng và lúng túng trong việc xác định hướng đi và niềm tin vào bản thân mình.
 
Ngày ấy, tuy chưa trưởng thành để hiểu hết những trạng thái phức tạp của tâm hồn con người nhưng tôi cũng cảm nhận phần nào nỗi buồn đau có lúc đến cực đoan của anh qua gương mặt, qua giọng đọc những câu thơ: “Không còn một niềm tin nào để đánh mất/ Không còn một thành quách nào để chiếm lĩnh/ Không còn người đàn ông nào để trọng/ Không còn một người đàn bà nào để yêu/ Không còn một tình yêu nào để từ bỏ/ Không còn một điếu thuốc nào để đốt lên cho đỡ sợ/ Tôi biết làm gì cho hết buổi chiều nay”.
 
Vở “Tôi và chúng ta” với nhân vật chính nguyên mẫu là ông Tạ Đình Đề
 
Và có những lúc anh đã chạm đến sự bế tắc trong những lời tự thú thật bi quan: “Nhưng giờ đây, một mình/ Như kẻ yếu hèn, tôi bỗng khóc/ Ngoài kia sông Hồng mênh mông nước xiết/ Những đê cao tưởng không gì phá nổi/ Bây giờ tan vỡ trong đêm/ Tôi còn gì mà đau khổ nữa em?”. Lưu Quang Vũ già hẳn đi. Những lúc cô đơn quá, anh ngồi rít thuốc lào sòng sọc hoặc đi bộ lang thang dọc trên những phố nhỏ của Hà Nội…
 
Cha mẹ tôi rất thương và xót xa cho hoàn cảnh của con nhưng cũng không làm gì hơn được. Ông bà đều đang làm việc trong các cơ quan văn nghệ nhưng cũng không xin được việc làm cho anh. Giữa lúc đó như một cơ duyên, bác Vạn Lịch - khi đó là Chánh Văn phòng Tổng cục Đường sắt - bạn của cha tôi, đã giới thiệu Lưu Quang Vũ đến gặp Tạ Đình Đề.
 
Cái tên Tạ Đình Đề từ lâu đã trở nên quen thuộc đối với các thành viên trong gia đình chúng tôi. Bác Vạn Lịch đã kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện mang màu sắc li kỳ huyền thoại về nhân vật này. Thời kì năm 1947 - 1949, Tạ Đình Đề là chỉ huy đội biệt động Hà Thành. Ông là người có tài xuất quỉ nhập thần, đã lập nên những chiến công thầm lặng, vô cùng oanh liệt. Tạ Đình Đề đã từng học trường Võ bị của Tưởng Giới Thạch, được chúng giao nhiệm vụ ám sát Bác Hồ, nhưng rồi được Bác cảm hóa và trở thành người cận vệ trung thành của Bác. Rồi chuyện Tạ Đình Đề tóm gọn tên trùm buôn lậu, có súng ở mạn Cầu Bố. Tạ Đình Đề thi bắn súng với sĩ quan Tàu. Rồi chuyện Tạ Đình Đề ngăn chặn công an lộng hành, ức hiếp nhân dân…
 
Được sự giới thiệu của bác Vạn Lịch, Lưu Quang Vũ rất háo hức đến Xưởng dụng cụ cao su Đường sắt làm quen với Tạ Đình Đề và được ông nhận vào làm việc. Thời gian làm việc tuy không dài nhưng tính cách, con người, những suy nghĩ và việc làm mới mẻ của Tạ Đình Đề đã để lại những ấn tượng đậm nét trong lòng Lưu Quang Vũ.
 
Và điều quan trọng hơn là chính hình ảnh Tạ Đình Đề đã trở thành nguyên mẫu để Lưu Quang Vũ sáng tạo nên hình ảnh Giám đốc Hoàng Việt trong vở kịch nổi tiếng Tôi và chúng ta. Vở diễn đã được Huy chương vàng tại Hội diễn Sân khấu 1985 và trở thành hiện tượng sân khấu những năm 80 của thế kỷ trước, với kỷ lục công diễn hơn một tháng liền tại Nhà Văn hóa Lao động thành phố Hồ Chí Minh. Các buổi diễn luôn bị ngắt quãng bởi những tràng vỗ tay hoan hô đầy phấn khích của khán giả.
 
Và còn một điều ít ai biết được là sự ám ảnh về nỗi oan khiên dẫn đến tù tội của Tạ Đình Đề còn là động lực để Lưu Quang Vũ viết nên vở kịch 2000 ngày oan trái sau này. Vở kịch xoay quanh nhân vật Luân, một thanh niên ngay thẳng, hiền lành chuẩn bị bước vào đời với một tương lai tươi sáng, hạnh phúc. Luân vừa ra trường, chuẩn bị đi làm. Vào dịp về ăn Tết với gia đình ở quê, đúng đêm giao thừa, Luân không may bị nghi ngờ dính vào một vụ án mạng.
 
Do sự cứng nhắc, chủ quan, áp đặt, thiếu trách nhiệm của một vài người trong các cơ quan pháp luật mà Luân phải chịu cảnh tù đầy oan nghiệt hơn 2.000 ngày. Kéo theo nỗi oan khuất đó là hàng loạt bi kịch đau đớn của gia đình anh. Nhờ có niềm tin của người thân, và đặc biệt là nhờ tình yêu trong sáng, mãnh liệt của cô bạn gái kết hợp với sự dũng cảm, thông minh của người bạn tù lương thiện vốn là một người lính nên Luân đã thoát vòng lao lý.
 
Cho đến hôm nay, những vở kịch của Lưu Quang Vũ được sáng tác dàn dựng từ những năm 80 của thế kỷ trước vẫn còn thấm đẫm tính thời sự với hiện thực xã hội nóng bỏng khi mang lại những cảm nhận và đặt ra các câu hỏi cho người xem để cùng nhau đi tìm lời giải đáp về các vấn đề của xã hội Việt Nam, chứa đựng trong đó các giá trị, thông điệp bền vững, thể hiện tinh thần trách nhiệm công dân, tính triết lý và nhân văn sâu sắc, hướng tới những điều cao cả, tốt đẹp, chống lại cái ác và những điều xấu xa, thấp hèn.
 
Kịch của Lưu Quang Vũ không chỉ là phản ánh hiện thực mà còn nâng tầm, phân tích bản chất và khái quát thành những vấn đề có tính thời đại, dự báo những vấn đề cơ bản và phổ biến trong đời sống từ các hiện tượng hoặc sự kiện cụ thể. Tính dự báo và sự đúng đắn của nó về các vấn đề xã hội mà Lưu Quang Vũ đã hình dung ra từ hơn 30 năm trước đã giúp các tác phẩm của anh luôn luôn mới. Xem kịch Lưu Quang Vũ, người ta nhận thấy những con người, nhân vật, tính cách, những biến cố và cách xử lý vấn đề, sự việc vẫn đang hiện hữu với đời sống xã hội hiện tại.
 
Trở lại với nguyên mẫu Tạ Đình Đề, ông đã kể cho TS. Dương Thanh Biểu - nguyên Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, người được giao trách nhiệm kiểm sát việc điều tra vụ án Tạ Đình Đề về thời gian làm việc của Lưu Quang Vũ ở Xưởng dụng cụ cao su Đường sắt như sau: “Nghe giới thiệu, Lưu Quang Vũ đến gặp tôi. Lúc gặp nhau, qua câu chuyện, tôi phần nào đoán biết được đây là con người có kỉ luật, được đào tạo bài bản và từng được tôi luyện trong khó khăn, gian khổ của cuộc đời quân ngũ.
 
Không hiểu có phải một thời mình là quân nhân hay sao mà khi tìm người về làm việc, nghe nói họ là bộ đội phục viên đang tìm công ăn việc làm, tôi đã có thiện cảm ngay. Tôi nhận Lưu Quang Vũ vào làm việc ở đơn vị mình. Qua thời gian sống và làm việc với đơn vị, tôi và Lưu Quang Vũ rất tâm đầu ý hợp. Sau một thời gian làm thợ tại Xưởng dụng cụ cao su Đường sắt, Lưu Quang Vũ có nói với tôi những suy nghĩ của anh về đời sống đang xuống cấp do cơ chế quan liêu, bao cấp sinh ra. Vũ nói sẽ viết kịch để phản ánh đúng hiện thực xã hội.
 
Tôi thấy Vũ là người có năng khiếu, chịu khó, dám nghĩ, dám làm nên hoàn toàn ủng hộ và tạo mọi điều kiện để cậu ấy thực hiện ý định sáng tác của mình. Nhưng, sau đó tôi bị bắt giam để điều tra. Việc sáng tác của Vũ như thế nào tôi cũng không nắm được…
 
Năm 1985, tôi được tha tù, Lưu Quang Vũ có đến thăm và đưa cho tôi xem vở kịch Tôi và chúng ta. Vũ nói với tôi rằng, từ khi tôi bị bắt giam thì cậu ta nhận ra sự oan trái, bất công nên cậu ta bắt đầu viết vở kịch này. Cậu ta còn cho tôi biết khi công diễn vở kịch, người xem rất hoan nghênh vì nó đã phản ánh đúng thực tế của đời sống kinh tế - xã hội lúc bấy giờ…
 
Lưu Quang Vũ nói rằng, nhờ những tháng ngày sống, làm việc ở Xưởng dụng cụ cao su Đường sắt mà viết được vở kịch này. Tôi đã đọc một lèo kịch bản do Lưu Quang Vũ tặng. Đây thật sự là vở kịch hay. Nó phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt giữa một bên là phái tiến bộ và một bên là phái bảo thủ. Trong kịch, cuộc đấu tranh này xảy ra tại Xí nghiệp Thắng Lợi. Nhưng đằng sau đó, người đọc, người xem cũng thấy được toàn cảnh xã hội ta lúc bấy giờ.
 
Mục đích của cuộc đấu tranh đó là nhằm thay đổi phương thức quản lí kinh tế, kiên quyết lên án cách quản lí theo tư tưởng bảo thủ, cứng nhắc, lạc hậu, khuyến khích những việc làm táo bạo, mạnh dạn đổi mới, vì lợi ích của người lao động. Càng đọc càng thấy vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ thực sự mang tính thời sự nóng hổi và thấm đẫm chất nhân văn sâu sắc.
 
Đọc xong vở kịch, tôi cũng không ngờ mới ngày nào đây Lưu Quang Vũ là người lính hiền lành, ít nói, chăm chỉ, lặng lẽ, nhiệt huyết mà bây giờ đã trở thành nhà thơ, nhà viết kịch tài ba và nhân hậu”.
 
Lúc mới vào làm việc ở Xưởng dụng cụ cao su Đường sắt, Lưu Quang Vũ được giao nhiệm vụ chấm công, theo dõi khối lượng sản phẩm của công nhân. Đó là thời kì quan liêu bao cấp nhưng Tạ Đình Đề đã áp dụng hình thức khoán sản phẩm, khoán công việc đến từng tổ sản xuất, từng người công nhân. Nghĩa là đơn vị của ông không áp dụng hình thức trả lương bình quân như xí nghiệp khác vẫn làm mà trả lương theo sản phẩm. Ở thời kì đó, đây là điều vô cùng mới lạ, thậm chí là mạo hiểm.
 
Có thời gian Lưu Quang Vũ chuyển sang làm ở bộ phận sản xuất nhựa, in gia công. Và cuối cùng chuyển sang làm ở bộ phận thi đua và đội văn nghệ của xí nghiệp. Tạ Đình Đề với bản tính nghĩa hiệp, giỏi thu phục nhân tâm, biết tôn trọng những người có tài, ông đã tạo công ăn việc làm, tạo điều kiện để họ phát huy sở trường của mình. Nhạc sĩ Phan Lạc Hoa cũng có thời là “quân” của Tạ Đình Đề. Đó cũng là thời điểm thăng hoa trong sáng tác của người nhạc sĩ này với những ca khúc nổi tiếng như Tàu anh qua núi, Tình yêu bên dòng sông quan họ.
 
Tác giả Lưu Quang Vũ

 

Nhân vật chính - Giám đốc Hoàng Việt trong vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ - ở hồi cuối cũng bị bắt giam trong sự phẫn nộ và đau đớn của những người công nhân. Phải chăng nó cũng giống với nguyên mẫu ngoài đời. Tạ Đình Đề nhớ lại: “Khi đi qua sân xí nghiệp để lên xe về trại giam, tôi thấy nhiều anh chị em công nhân ra vẫy tay, tạm biệt. Nhiều người sụt sùi, mắt ngấn lệ. Trong đó, tôi nhận ra Lưu Quang Vũ, hai mắt đỏ hoe, vừa khóc, vừa giơ tay vẫy vẫy. Tôi nhìn anh em cũng giơ cao tay vẫy từ biệt những đồng nghiệp thân yêu của mình. Tôi tự hỏi: “Không ngờ lo việc làm và đời sống cho anh em lại trở thành tội và bị bắt giam?”.
 
Tạ Đình Đề bị bắt với các tội danh: Tổ chức móc ngoặc, chiếm dụng thiết bị máy móc của nhà nước đem về sử dụng sai nguyên tắc; lập quỹ trái phép; tham ô và cố ý làm trái nguyên tắc chế độ kinh tế tài chính, thưởng cho công nhân sai nguyên tắc; tuyển dụng người vào làm việc một cách tùy tiện, lập ra đội văn công để phục vụ đường sắt trái với quy định của Chính phủ…
 
Khi bị bắt, Tạ Đình Đề đang phụ trách Xưởng dụng cụ cao su Đường sắt, Trưởng ban thể dục thể thao Đường sắt, Đội trưởng Đội kiến thiết cơ bản. Mọi người đều công nhận đó là thời kỳ năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, đời sống vật chất và tinh thần của người thợ được nâng cao hơn bao giờ hết.
 
Sau gần 2 năm bị tạm giam, Tạ Đình Đề bị đưa ra xét xử từ ngày mùng 7 đến 12/6/1976. Hàng nghìn người dân đứng dưới trời nắng như thiêu đốt để dự phiên tòa. Sau 6 ngày xét xử, Tạ Đình Đề được tuyên bố tha bổng. Không sao tả hết niềm vui của những người đến dự phiên tòa. Ai cũng mong đợi một kết quả có hậu với con người mà họ tin rằng sẽ không bao giờ làm điều xấu, không bao giờ phá nước hại dân. Một con người đã sáng tỏa trong lòng họ bởi những câu chuyện như huyền thoại.
 
Những chiến sĩ cảnh sát trước đây còng tay, giải ông từ nhà tù Hỏa Lò đến tòa, bây giờ chính họ lại mở khóa còng và dẹp lối cho Tạ Đình Đề bước ra với đồng nghiệp, bạn bè đang đứng đông nghẹt ở ngoài sân, ở các dãy phố quanh tòa án. Một cảnh tượng thật lạ lùng khi những người thợ ở Xưởng dụng cụ cao su Đường sắt đã tung hô và công kênh Tạ Đình Đề lên như một vị anh hùng. Tạ Đình Đề đắm chìm trong hạnh phúc vô biên đến ngạt thở sau những năm tháng buồn tủi, uất hận trong trại tạm giam. Không có niềm vui nào lớn hơn khi con người được công lí giải oan, được nhân dân chào đón.
 
Trớ trêu và oan nghiệt thay, 10 năm sau, ngày 29/11/1986, Tạ Đình Đề lại bị truy tố vì tội tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở tuổi ngoài 70, một lần nữa, ông lại dính vòng lao lí. Sau hơn 2 năm ngồi tù, Tạ Đình Đề được tạm tha. Vụ án Tạ Đình Đề (một vụ kinh tế và một vụ an ninh) đều bị kéo dài và rất phức tạp, thu hút sự quan tâm của dư luận và báo chí. Đến ngày 8/8/1989, Viện Kiểm sát nhân dân mới ra quyết định đình chỉ điều tra đối với vụ án và yêu cầu cơ quan chủ quản Tổng cục Đường sắt phục hồi, giải quyết quyền lợi hợp pháp cho đương sự.
 
Huyền thoại Tạ Đình Đề không chỉ giúp Lưu Quang Vũ trong lúc thất cơ lỡ vận mà còn là hình mẫu của một con người đi trước thời đại và đã phải trả giá cho những hành động của mình. Trước mắt tôi còn vẹn nguyên những lời nói, những câu chuyện, những tình cảm của Lưu Quang Vũ đối với Tạ Đình Đề. Ngày tòa xử Tạ Đình Đề, Lưu Quang Vũ đã không còn làm việc ở Xưởng dụng cụ cao su Đường sắt nữa nhưng anh vẫn lặng lẽ theo dõi. Hôm tòa tuyên bố Tạ Đình Đề vô tội, Lưu Quang Vũ cũng có mặt trong đám đông chào đón ông với rất nhiều hoa và nước mắt.
 
Vở kịch "Tôi và chúng ta" do Nhà hát kịch Việt Nam dàn dựng
 
Vở kịch Tôi và chúng ta ra đời năm 1984 trong bối cảnh trước thềm Đổi mới của đất nước. Nhân vật Hoàng Việt hội tụ đủ phẩm chất của một con người có tinh thần dân chủ. Hoàng Việt đã dám nhìn thẳng vào sự thật và thấy vô số bất cập trong quản lí đang tồn tại vô lí làm cản trở sự phát triển của xã hội. Tiếng nói của anh là tiếng nói đầy tinh thần dũng cảm khi nhân vật thẳng thắn chỉ rõ cái sai của xí nghiệp Thắng Lợi.
 
Sự thật đó là một đơn vị sản xuất “rất không bình thường, rất yếu kém, bê bối, tồi tệ, mọi khâu sản xuất đều trì trệ”, “dối trên lừa dưới”. Căn bệnh quan liêu, duy ý chí xa rời thực tế, hàng trăm nguyên tắc đã lỗi thời áp dụng máy móc mà cứ tồn tại vô lí: “Cấp trên cao lại dựa vào cấp trên cao nữa, nghĩa là kế hoạch đề ra một cách ngược. Đáng lẽ phải do từ cơ sở đưa lên, dựa trên khả năng yêu cầu của thị trường”.
 
Hoàng Việt dám thay đổi bằng hành động cụ thể: Bắt tay vào triển khai kế hoạch trên tình hình thực tế, loại bỏ chức vụ không cần thiết, tăng thêm lao động nhằm tăng năng suất lao động, đưa ra chế độ khoán lương theo sản phẩm tạo nên sự công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ. Với tinh thần “người thật việc thật”, Hoàng Việt đã giúp cho xí nghiệp ăn ra làm nên, tăng năng suất lao động lên gấp bốn lần, đời sống của công nhân được cải thiện. Đó là thành quả mới mà cơ chế cũ không thể có được.
 
Hoàng Việt đã trả lời thẳng thắn Bộ trưởng: “Trong khi trên chưa kịp sửa đổi thì cho phép chúng tôi được tự sửa đổi” bởi lẽ “nguyên tắc sinh ra để phục vụ sự sống chứ không phải sự sống sinh ra phục vụ các nguyên tắc”. Khát vọng của Hoàng Việt thật lớn lao, có ý nghĩa nhưng mạo hiểm, khát vọng ấy bắt nguồn từ hi vọng xây dựng một xã hội bình đẳng và dân chủ, ở đó người lao động thực sự được làm chủ cuộc sống.
 
Tinh thần và việc làm của Hoàng Việt được sự cổ vũ của đông đảo công nhân như cô Thanh, ông Quých, bà Bộng, bởi một lẽ rất giản dị là một giám đốc mới đã biết quan tâm đến đời sống cụ thể của công nhân. Người công dân được nói lên nguyện vọng dù là rất nhỏ bé của mình. Không khí cởi mở, bình đẳng, dân chủ như một luồng sinh khí mới làm thay da đổi thịt xí nghiệp Thắng Lợi. Đúng là “Phải có người ra khỏi hang trước… phải có một người đi trước”.
 
Lời đối thoại của Hoàng Việt: “Với số lương tối thiểu ấy người công nhân mới có thể sống mà không chết đói, không làm bậy. Muốn tăng năng suất phải đầu tư. Khâu cần đầu tư trước tiên là con người. Đến cái máy cũng phải có đủ nhiên liệu nó mới làm được. (Với mọi người) - Và phải làm ra trò! Cái dở lâu nay của chúng ta là: người chăm và kẻ lười đều được đối xử như nhau, người tài năng và kẻ dốt nát đều được hưởng chung một mức quyền lợi, thậm chí có những kẻ không làm gì cả, chỉ ngồi phán thôi lại được nể hơn những người đã vất vả cống hiến. Chủ nghĩa xã hội gì mà lại thế? Không, từ nay ai làm được nhiều sản phẩm sẽ được hưởng lương cao hơn, ai làm tồi sẽ bị phạt tiền, đó là nguyên tắc của xí nghiệp chúng ta! (mọi người hoan hô rầm rộ)” đã đưa đến cho khán giả nhận thức về quyền và nghĩa vụ của người lao động, họ phải sống được bằng lương. Lương phải được đánh giá bằng sản phẩm lao động. Người lao động phải được đối xử công bằng bình đẳng về quyền lợi, thưởng, phạt công minh. Yếu tố con người được chăm sóc hàng đầu,… Tinh thần dân chủ của một giám đốc mới như một luồng gió mát thổi vào không khí ngột ngạt của bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Đối thoại của Hoàng Việt đã làm cho cả xí nghiệp phấn chấn tin tưởng và lập tức kéo nhiều nhân vật vào đối thoại tích cực đó là Thanh, bà Bộng, ông Quýnh tán thưởng “Được quá chứ lị”.
 
Hoàng Việt bày tỏ suy nghĩ, qua đối thoại: “Sự vật không đứng yên, cuộc sống không đứng yên một chỗ, có cái hôm qua đúng, hôm nay nó là vật cản. Phải tìm cách phá nó, mong anh thông cảm và hiểu cho”.
 
Nhà văn để cho nhân vật của mình tham gia đối thoại dân chủ bằng nhiều cách: đối thoại thẳng thắn, nhân vật đã nói là làm. Trong đối thoại luôn xảy ra xung đột, tay đôi, cà khịa, tranh luận để đi tìm chân lí. Để xóa khoảng cách, nhân vật tham gia đối thoại có thể hoán đổi vị thế hoặc có thể bị đẩy vào tình huống trớ trêu. Hoàng Việt trong vở kịch Tôi và chúng ta là nhân vật tham gia đối thoại theo đúng tinh thần trên. Cuối vở kịch là đối thoại giữa Hoàng Việt và thanh tra khi Hoàng Việt bị kết tội vi phạm “hai mươi hai điểm trong nguyên tắc của nhà nước”. Ngay khi đối thoại với nhân vật có quyền lực, Hoàng Việt vẫn giữ được quan điểm lập trường trong đối thoại, tính chất tranh luận muốn đi đến cuối cùng của chân lí ngày càng bộc lộ gay gắt: “Nhưng những người thợ ấy đã đóng góp cho xí nghiệp, cho nhà nước số thành phẩm lớn hơn số tiền đãi ngộ cho họ nhiều. Tóm lại chúng tôi đã làm gì xấu nào? Xí nghiệp mở rộng thêm sản xuất, xã hội có thêm nhiều sản phẩm, nhà nước thêm lợi ích, thanh niên có công ăn việc làm, chúng tôi sai ở chỗ nào?”.
 
Không phải chỉ sau này, khi Tạ Đình Đề đã được trao tặng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và Huân chương Độc lập hạng 3 mà ngay từ thời gian khó, oan nghiệt đó, Lưu Quang Vũ đã coi ông là anh hùng của người lao động, một con người đi trước thời đại. Đồng nghiệp thân thiết của Lưu Quang Vũ đều biết rằng vở kịch Tôi và chúng ta có tên gọi ban đầu là Người đi trước. Hiện tượng Tạ Đình Đề tương tự như trường hợp Kim Ngọc trong nông nghiệp. Ông đã là một nguyên mẫu sinh động để Lưu Quang Vũ xây dựng nên nhân vật Hoàng Việt trong vở kịch Tôi và chúng ta nổi tiếng lúc bấy giờ, và vẫn còn tính thời sự cho đến ngày hôm nay.

Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có
0 bình luận
Xem thêm bình luận

Nhập thông tin của bạn

Đọc thêm