Theo kiến nghị của Luật sư Trương Anh Tú, Trưởng Văn phong luật sư Trương Anh Tú, Đoàn Luật sư TP Hà Nội và Luật sư Đặng Xuân Cường, Đoàn Luật sư TP Hà Nội, những người bào chữa miễn phí cho bị cáo Nguyễn Thị Hải (SN 1981, trú tại xã Quảng Thạch, Quảng Xương, Thanh Hóa) gửi các cơ quan liên quan như: Ủy bản Tư pháp của Quốc hội, Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (HLHPNVN), Tòa án nhân dân tối cao,… về vụ án “Vợ trộm tiền chồng bị khởi tố” mà tòa án nhân dân quận Hoàng Mai (TP Hà Nội) đang thụ lý.
Theo nội dung kiến nghị, Luật sư Trương Anh Tú đề nghì cần làm rõ nhiều tình tiết như sau:
Đối với lời khai của người bị hại có nhiều mâu thuẫn. Cụ thể: Lời khai ban đầu vào hồi 22 giờ 40 phút tại Công an phường Hoàng Liệt (BL 69) ngay sau khi sự việc phạm tội xảy ra, Chu Bá Minh có trình bày: “Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 19/4/2017, tôi đi làm về và có vào nhà tắm giặt. Lúc này tôi có để ví tiền trong túi quần và treo ở trong nhà tắm. Lợi dụng sơ hở khi tôi đang gội đầu không để ý, Hải vào nhà tắm và móc lấy chiếc ví trong túi quần…”.
Cuối biên bản kể trên, Chu Bá Minh lại khai: “Hỏi: Anh cho biết vị trí anh để ví tiền bị mất? Đáp: Tôi để ví tiền trong túi quần đùi bên phải, cho vào túi ni lông treo ở móc ở nhà tắm”.
Tuy nhiên, theo Biên bản ghi lời khai ngày 18/5/2017 với người bị hại Chu Bá Minh (BL 71), người bị hại khai: “… Trước đó, tôi cởi quần sóoc đang mặc, bên trong túi quần soóc có 01 ví giả da màu nâu, bên trong có số tiền 54 triệu đồng…”.
Ngoài ra, trong Biên bản ghi lời khai ngày 15/7/2017 (BL 73) Chu Bá Minh khai: “… tôi vào phòng tắm để tắm giặt, tôi có bỏ 01 ví giả da màu nâu trong túi ni lông treo lên móc treo quần áo trong nhà tắm, trong ví của tôi lúc này có số tiền mặt 54 triệu đồng…”.
Do đó, Theo 02 bản ảnh (BL 56, 57) thì ví da để trong túi ni lông chứ không có quần sóoc. Như vậy chỉ riêng việc chiếc ví da để như thế nào người bị hại đã có 03 lời khai khác nhau, bị hại lúc khai đựng trong bọc ni lông, lúc thì khai để trong ví da đựng trong túi quần sóoc.
Đối với số tài sản được cho là “trộm cắp” cần làm rõ, đó là tài sản của chung hay riêng.
Trao đổi với phóng viên, Luật sư Trương Anh Tú trích dẫn, Điều 138 Bộ luật Hình sự quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng …”
Tuy nhiên, theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án (Lý lịch cá nhân, Lý lịch bị can, lời khai của người bị hại, lời khai của bị cáo…) phản ánh giữa bị cáo Nguyễn Thị Hải và bị hại Chu Bá Minh có quan hệ vợ chồng bắt đầu từ năm 2004 đến khi xảy ra sự việc phạm tội và giữa họ có hai con chung.
Hai vợ chồng và hai con chung cùng tạm trú tại một địa chỉ là Tổ 10 khu dân cư Pháp Vân, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Tp. Hà Nội và được cơ quan có thẩm quyền ghi nhận trong Sổ Tạm trú số 240030825. Quá trình chung sống với nhau, họ đã tạo lập được các khối tài sản chung, cùng chi phí nuôi dưỡng hai con nhỏ ăn học và chi phí chung cho đời sống sinh hoạt hằng ngày.
Quan hệ của Nguyễn Thị Hải và Chu Bá Minh về mặt pháp luật thì chưa phải là quan hệ hôn nhân (do chưa có đăng ký kết hôn). Tuy nhiên thực tế họ đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người vợ, người chồng nhằm xây dựng một gia đình theo mục đích của hôn nhân. Mối quan hệ của Hải và Minh cũng được pháp luật về hôn nhân và gia đình dự liệu và điều chỉnh.
Điều 16, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng, như sau:“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan…”
Thực tế trong quá trình điều tra, CQCSĐT Công an quận Hoàng Mai không thu thập được bất cứ văn bản nào thể hiện giữa bị cáo Hải và anh Minh có sự thỏa thuận về tài sản chung, tài sản riêng. Do đó về nguyên tắc tài sản mà Hải hay anh Minh làm ra được mặc nhiên xác định là tài sản chung hợp nhất.
Dạng tài sản chung này được xác định theo quy định tại Điều 210, Bộ luật Dân sự năm 2015, theo đó:“1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. 2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung.”
Như vậy, nếu quả thực số tiền 54 triệu đồng mà Hải có lấy của Minh vào ngày 19/4/2017 là đúng, thì thực tế số tiền này cũng nằm trong khối tài sản chung hợp nhất của Hải và Minh. Mặt khác, theo trình bày của Hải thì động cơ mục đích lấy tiền của chồng vào ngày 19/4/2017 là nhằm trả món nợ chung khi xây nhà.
Để xác minh lời trình bày này của Hải, ngày 07/10/2017, chúng tôi đã có buổi làm việc tại xã Quảng Thạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Trong buổi làm việc này, chúng tôi đã được gặp gỡ, tiếp xúc với những người đã cho Hải vay tiền để xây dựng ngôi nhà tại thôn Nam, xã Quảng Thạch, huyện Quảng Xương. Những người này đều xác nhận biết Chu Bá Minh và Chu Bá Minh nhiều lần về quê Thạch Bắc. Khi về quê, Hải và Minh ở tại ngôi nhà cấp bốn nêu trên. Anh em, họ hàng, bà con lối xóm đều công nhận Minh là chồng của Hải.
Và đặc biệt, khi vay tiền của những người họ hàng để xây nhà, Hải đều nói trước rằng khi nào chồng là anh Minh chuyển tiền về thì sẽ trả ngay cho họ. Do đã biết Minh, hơn nữa lại là họ hàng nên họ đã rất tin tưởng cho Hải vay tiền. Với những tình tiết đã được chúng tôi xác minh làm rõ (có đĩa ghi hình kèm theo kiến nghị này) hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng có việc vay nợ nhằm chi tiêu chung giữa Hải và Minh.
Như vậy, trong sự việc xảy ra ngày 19/4/2017 hành vi của bị cáo Hải đã thực hiện có thỏa mãn dấu hiệu “lén lút” của Tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên về khách thể của “Tội trộm cắp tài sản” thì không bị xâm phạm, bởi lẽ tài sản mà Hải lấy của Minh về nguyên tắc là tài sản chung giữa Hải và Minh, dù người này có thể thu nhập cao hơn người kia nhưng cần phải xét trên nguyên tắc “của chồng công vợ”.
Mặt khác động cơ, mục đích của việc Hải lấy tiền của chồng là nhằm trả nợ chung chứ không phải là chi tiêu cho cá nhân mình. Do vậy, thiết nghĩ khi giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thiết phải điều tra, xem xét tất cả những vấn để liên quan thì từ đó mới giải quyết vụ án được một cách khách quan, thấu tình đạt lý.
Ngoài ra, Ở góc độ đạo lý, việc tố cáo, liên tục yêu cầu xử lý nghiêm đối với người đã có thời gian 13 (mười ba) năm chung sống, có với nhau hai mặt con, đẩy người vợ vào vòng lao lý liệu có phù hợp đạo lý một ngày nên nghĩa? Nên chăng, cơ quan tiến hành tố tụng trước hết cần phải giải thích cho Chu Bá Minh biết điều này, tránh dẫn đến một sự việc tưởng chừng đơn giản lại trở nên phức tạp, trầm trọng và có thể đẩy một người phụ nữ chân yếu tay mềm vào vòng lao lý.
Hơn lúc nào hết, Nguyễn Thị Hải đang rất cần nhận được sự quan tâm, lên tiếng bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của các tổ chức, tránh bị oan sai và đảm bảo quyền lợi cho bị cáo trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.
Báo PNVN sẽ tiếp tục thông tin đến bạn đọc.
Tóm tắt vụ án. Anh Chu Bá Minh (SN 1965, ở xã Quảng Minh, huyện Việt Yên, Bắc Giang) và chị Nguyễn Thị Hải (SN 1982, ở xã Quảng Thạch, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa) có quan hệ tình cảm với nhau, sống với nhau như vợ chồng từ năm 2004, nhưng không đăng ký kết hôn và có với nhau 2 người con trai. Khoảng đầu năm 2016, Hải thường xuyên bỏ nhà đi đến ngày 14/4/2017, Hải có về nhà anh Minh ở đường Giải Phóng (quận Hoàng Mai, Hà Nội) và ở lại đó. Khoảng 20h30 ngày 19/4/2017, khi Hải đang ở nhà thì anh Minh đi làm về rồi vào nhà tắm để tắm giặt. Lúc này, Hải thấy trong ví anh Minh có một số tiền lớn (54 triệu đồng). Lợi dụng anh Minh đang gội đầu nên Hải lén lút lấy chiếc ví và ra khỏi phòng tắm. Nghe có tiếng động, anh Minh quay lại thì thấy ví đã bị mất và thấy Hải đang đi ra ngoài nên đã đuổi theo. Khi thấy anh Minh đuổi theo, Hải bỏ chạy ra đầu ngõ, trong lúc bỏ chạy Hải đã lấy hết tiền trong ví và vứt ví lại rồi chạy vào nhà anh Nguyễn Hải An ở trên đường Giải Phóng. Sau đó, tiếp tục chạy lên gác xép và đóng cửa lại. Lúc này anh Minh đuổi theo và yêu cầu Hải trả lại tiền, nhưng Hải không mở cửa và rút một phần tiền (34 triệu) trả lại cho anh minh, số còn lại Hải bỏ vào người. Thấy tiền đưa bị thiếu nên anh Minh tiếp tục yêu cầu Hải trả nhưng Hải không trả và hai bên giằng co làm vỡ 1 ô cửa kính nhà anh An. Sau đó, anh Minh đã báo công an đến bắt quả tang Hải. Tại cơ quan công an, Hải thừa nhận hành vi của mình và giao nộp cho công an số tiền 20 triệu đồng còn lại. Ngày 18/5, cơ quan công an đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can Nguyễn Thị Hải về tội "Trộm cắp tài sản". Cũng trong quá trình điều tra, Hải không có mặt tại nơi cư trú. Ngày 11/7/2017, Cơ quan CSĐT công an quận Hoàng Mai đã ra Quyết định truy nã đối với Nguyễn Thị Hải và sau đó 1 ngày, Hải đã bị cơ quan công an bắt tạm giam với tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản e, Điều 138 Bộ Luật Hình sự. Tuy nhiên, trong 2 phiên tòa sơ thẩm ngày 28/9 và 30/9/2017, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai đã tuyên trả hồ sơ để điều tra lại và thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Nguyễn Thị Hải (được thả ngay tại tòa và cấm đi khỏi nơi cư trú). |