Năm 1928, Hepburn tốt nghiệp khoa kịch nghệ đại học Bryn Mawr, Pennsylvania và xác định sẽ theo nghề diễn xuất. Lúc chưa tốt nghiệp, bà đã xuất hiện trong nhiều vở kịch của trường nên sau khi tốt nghiệp bà thể hiện khá dễ dàng các vai nhỏ trên sân khấu kịch Broadway và ở những nơi khác.
Nữ diễn viên Katharine Hepburn. |
Vai diễn của bà trong vở kịch Art and Mrs Bottle (1932) thu hút được sự chú ý đặc biệt của các nhà phê bình, mở đường cho Katharine vào vai chính trong vở kịch A Warrior’s Husband (1932). Sau đó bắt đầu có các đề nghị đóng phim đến với Katharine.
Có giai thoại kể lại, sau khi bà từ chối ký hợp đồng với hãng Paramount lấy lý do Hollywood không phải là chỗ thi thố tài năng thì hãng RKO nhảy vào cuộc. Hepburn đưa ra mức lương chóng mặt vào thời điểm đó là 1.500 USD một tuần, RKO đồng ý với điều kiện phải xem thử bà diễn vài cảnh. Thử nghiệm cho thấy Hepburn là thích hợp nhất với vai diễn Sydney Fairfield trong bộ phim đầu tay A Bill of Divorcement. Bộ phim đã biến bà thành ngôi sao điện ảnh.
Trong những năm 1932-1934, bà có mặt trong 5 bộ phim do RKO sản xuất và đoạt tượng vàng Oscar năm 1934 với vai diễn Eva Covelace trong phim Morning Glory (1933), bộ phim thứ 2 của bà. Đến bộ phim thứ tư Little Women (1933) đã phá kỷ lục về doanh thu tiền vé của Hollywood.
Sau khi giảnh giải Oscar đầu tiên, nữ diễn viên từng bị khán giả tẩy chay và tưởng chừng sự nghiệp kết thúc vào thời điểm ấy nhưng Katharine đã quay trở lại đầy ngoạn mục và để lại dấu ấn đậm nét. |
Năm 1938, chán nản, bà quay trở lại Broadway, nơi luôn luôn mở rộng vòng tay chờ đón đứa con đi xa trở về để chờ cơ hội. May mắn đến khi bà được giao vai nữ quí tộc Tracy trong vở kịch The Philadelphia. Vai diễn đầy diễn biến nội tâm trái ngược nhau như được viết riêng cho Katharine. Vở kịch thành công vang dội.
Bà đã 4 lần giành tượng vàng Oscar trong 12 lần đề cử. |
Năm 1951, Hepburn có thêm thành công khác với The African Queen, bộ phim được Viện phim Mỹ (AFI) xếp vào 100 bộ phim vĩ đại nhất của mọi thời đại, đưa cả Hepburn lẫn Bogart vào hai vị trí đầu 100 diễn viên nam nữ lớn nhất trong lịch sử điện ảnh. Bộ phim đánh dấu bước chuyển của bà sang một diễn viên tuổi trung niên. Bà được đề cử giải Oscar thứ 5 cho bộ phim này. Suốt thập niên 50, Hepburn có thêm nhiều phim được đề cử Oscar nữa. Đó là Summer Time (1955), The Rainmaker (1956) và Suddenly, Las summer.
Năm 1967, bộ phim Guess Who's Coming to Dinner đã mang về cho Katharine Oscar thứ 2. Năm tiếp theo bà lại thắng giải Oscar thứ 3 với A Lion In Winter và 13 năm sau đoạt giải Oscar thứ 4 với On Golden Pond (1981).
Năm 1999, Katharine Hepburn được Viện phim Mỹ bầu chọn là huyền thoại vĩ đại nhất trong lịch sử màn bạc thế giới. |
Năm 1999, Katharine Hepburn được Viện phim Mỹ bầu chọn là huyền thoại vĩ đại nhất trong lịch sử màn bạc thế giới. Để vinh danh bà, một nhà hát đã được xây dựng tại Old Saybrook, Connecticut nơi Hepburn đã sống những ngày cuối đời. Rạp hát và Trung tâm Văn hoá Nghệ thuật Katharine Hepburn (Katharine Hepburn Cultural Arts Center) khánh thành năm 2008.
12 lần đề cử giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất của Katharine Hepburn:
1933: Morning Glory - giành giải
1935: Alice Adams - đề cử
1940: The Philadelphia Story - đề cử
1942: Woman of the Year - đề cử
1951: The African Queen - đề cử
1955: Summertime - đề cử
1956: The Rainmaker - đề cử
1959: Suddenly, Last Summer - đề cử
1962: Long Day's Journey Into Night - đề cử
1967: Guess Who's Coming to Dinner - giành giải
1968: The Lion in Winter - giành giải
1981: On Golden Pond - giành giải