pnvnonline@phunuvietnam.vn
"Quả bom hẹn giờ" khổng lồ của thế giới đang nóng, nếu "nổ" sẽ làm bùng phát đại dịch nguy hiểm
Là nơi có sự đa dạng sinh học lớn nhất trên hành tinh, Amazon mới đây nhất được ví là "một quả bom hẹn giờ" khổng lồ cho sự xuất hiện hoặc tái bùng phát của các căn bệnh có khả năng gây đại dịch, nghiên cứu của các nhà khoa học đăng trên The Conversation cho hay.
Worldwildlife cho biết, Amazon đang gặp khủng hoảng. Phá rừng, suy thoái, hạn hán nghiêm trọng và biến đổi khí hậu đang đẩy hệ thống sông và rừng mưa nhiệt đới Amazon đến bờ vực, làm suy yếu khả năng phục hồi trong tương lai của người dân bản địa và hệ sinh thái Amazon.
Amazon là nơi có sự đa dạng sinh học lớn nhất trên hành tinh. Ảnh: FG Trade/Getty Images
Amazon ở Nam Mỹ không chỉ bao gồm khu rừng mưa nhiệt đới lớn nhất còn lại trên thế giới, mà còn chứa ít nhất 10% đa dạng sinh học được biết đến trên hành tinh - bao gồm cả hệ thực vật và động vật đặc hữu và có nguy cơ tuyệt chủng và con sông Amazon chảy dài hơn 6.600km với hàng trăm nhánh và suối, chiếm 20% lượng nước ngọt lỏng của Trái đất.
Có một mối liên hệ rõ ràng giữa sức khỏe của Amazon và sức khỏe của hành tinh. Độ che phủ tán của Amazon giúp điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm hành tinh. Các khu rừng mưa ước tính chứa khoảng 150-200 tỷ tấn carbon, giúp ổn định khí hậu địa phương và toàn cầu. Nạn phá rừng ồ ạt đã phát thải ra một lượng đáng kể lượng carbon này, gây ra những hậu quả tiêu cực trên toàn thế giới.
Chưa hết, giới khoa học lại đưa ra lời cảnh báo về Amazon khi ví nó là một "quả bom hẹn giờ". Tại sao?
Bùng phát những căn bệnh đã biết…
Trong nửa thế kỷ qua, Amazon tưởng như vô tận đã mất ít nhất 17% độ che phủ rừng, khả năng kết nối của nó ngày càng bị gián đoạn và nhiều loài đặc hữu đã phải hứng chịu làn sóng khai thác tài nguyên.
Hiện tại, việc biến đổi đất và phá rừng ở Amazon thải ra tới 0,5 tỷ tấn carbon mỗi năm, chưa bao gồm lượng khí thải từ cháy rừng.
Nhiều khu vực rừng nhiệt đới Amazon của Brazil đã bị chặt phá để làm ruộng, chăn thả gia súc và xây dựng cơ sở hạ tầng. Ảnh: Ricardo Beliel/Brazil Photos/LightRocket via Getty Images
Theo quan sát của các nhà khoa học, sự xuống cấp của các khu vực được bảo tồn và sự lệch hướng chuyển động của dòng chảy cũng như tình trạng hạn hán khắc nghiệt có thể dẫn đến tình trạng thiếu nước và lương thực. Điều này đặt ra mối đe dọa trực tiếp về tình trạng suy dinh dưỡng, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân địa phương và khiến họ dễ mắc các bệnh đã biết hơn.
Thiếu nước sạch và vệ sinh kém trong điều kiện hạn hán cũng làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua nước ô nhiễm và thực phẩm bị ô nhiễm. Vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi tỷ lệ mắc các bệnh liên quan đến bảo quản cá kém, chẳng hạn như bệnh nước tiểu đen, cũng tăng lên trong thời kỳ hạn hán khắc nghiệt.
Sự nóng lên toàn cầu cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình này. Hiện tượng này làm cho sự hiện diện ngày càng tăng của muỗi truyền bệnh như sốt rét và sốt xuất huyết. Muỗi rừng được xem là sinh vật nguy hiểm nhất ở Amazon vì độ ẩm trong rừng rất cao.
Amazon là nơi sinh sống của hơn 400 loài lưỡng cư, 430 loài động vật có vú, 300 loài cá và hơn hai triệu loại côn trùng. Muỗi được xem là sinh vật nguy hiểm nhất trong rừng Amazon vì độ ẩm trong rừng rất cao. Ảnh: Golookexplore
Theo tính toán của các nhà nghiên cứu, nhiệt độ trung bình của hành tinh chỉ tăng vài độ cũng có thể cho phép chúng xâm chiếm những khu vực mà trước đây không thể tiếp cận được. Ở những vùng có muỗi truyền bệnh, suy thoái môi trường có thể làm tăng/giảm thời gian mưa, tạo điều kiện cho lũ lụt và duy trì nước đọng - điều này càng giúp chúng sinh sôi, nảy nở.
Không có gì ngạc nhiên khi các bệnh phổ biến do vector truyền bệnh là những trường hợp bùng phát kinh điển do mất cân bằng môi trường. [Vector truyền bệnh còn gọi là vật chủ trung gian truyền bệnh, gồm muỗi, ruồi, bọ chét, ve, mò...].
Cuộc khủng hoảng nhân đạo gần đây của bộ tộc da đỏ bản địa Yanomami (thuộc vùng rừng rậm Amazon nằm ở biên giới giữa Venezuela và Brazil), một thảm kịch do khai thác trái phép, chiếm đất và thiếu khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, là một trường hợp điển hình.
Thành viên của bộ tộc da đỏ bản địa Yanomami. Ảnh: Fiona Watson/Survival International.
Ngoài việc gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường bởi thủy ngân, hoạt động khai thác khoáng sản đã tạo môi trường thuận lợi cho sự sinh sản và lây lan của loài muỗi thuộc chi Anopheles, vật truyền bệnh sốt rét.
Việc đào các khe núi để lấy vàng và khoáng chất đã tạo ra các vũng nước đóng vai trò là nơi sinh sản cho loài muỗi truyền bệnh. Ngoài ra, hoạt động khai thác mỏ - làm tăng dân số ở những vùng xa xôi này - cũng tạo điều kiện cho bệnh sốt rét lây lan. Về mặt số lượng, trong khi giai đoạn 2008-2012 có khoảng 20% số ca sốt rét xảy ra ở khu vực có người Yanomami sinh sống thì giai đoạn 2018-2022, con số tăng lên gần 50%.
Nguy cơ xuất hiện những căn bệnh mới
Các bệnh lây truyền từ động vật sang người còn tiềm ẩn một vấn đề lớn hơn. Trong khi một số mầm bệnh (tác nhân gây bệnh như virus và vi khuẩn) có khả năng lây nhiễm cho một hoặc một số loài vật chủ, thì những mầm bệnh khác có tính tổng quát hơn và có thể lây nhiễm cho nhiều loại động vật nếu có tiếp xúc và cơ hội.
Kiểu "nhảy" từ vật chủ này sang vật chủ khác xảy ra liên tục ở các loài động vật trong môi trường sống tự nhiên của chúng.
Ảnh minh họa: Alcimed
Vấn đề là: Khi môi trường sống bị phá hủy, vì bất kỳ lý do gì (con người hay lý do khác), các loài địa phương sẽ di cư đến các khu vực được bảo tồn hơn để tìm kiếm thức ăn và nơi trú ẩn. Và điều này có thể dẫn chúng đến những khu vực gần khu định cư của con người - tạo điều kiện tiếp xúc giữa động vật hoang dã và con người.
Thật không may, ngăn ngừa bệnh lây truyền từ động vật sang người không phải là một nhiệm vụ dễ dàng - không có phương pháp hiệu quả nào có thể dự đoán căn bệnh mới xuất hiện tiếp theo sẽ là gì hoặc nó sẽ xuất hiện từ đâu.
Dẫu vậy, vẫn có thể theo dõi quá trình hình thành bệnh mới này. Để làm được điều này, các nhà khoa học phải theo dõi được sự lưu hành của virus và vi khuẩn kháng thuốc trong các mẫu nước, động vật và vật truyền bệnh cũng như con người.
Các động vật như dơi, loài gặm nhấm và linh trưởng được sử dụng công nghệ giải trình tự gen thế hệ tiếp theo để phát hiện sớm các tác nhân lưu hành có thể gây đe dọa cho sức khỏe con người.
Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa đủ. Để có hiệu quả, việc giám sát phải thường xuyên và bao trùm cả cấp địa phương và quốc gia. Ngoài việc giám sát, các chính phủ cần đầu tư vào các phương pháp chẩn đoán nhanh hơn và chính xác hơn để có thể giúp ngăn chặn sự lây lan của các bệnh mới tiềm ẩn có khả năng gây đại dịch.