Sáp nhập đại học - Bài 2: Tinh gọn để lớn mạnh vươn tầm quốc tế

Thời gian tới giáo dục đại học sẽ bước vào giai đoạn sắp xếp, sáp nhập, tinh giản quy mô. Ảnh minh họa
Trong thời gian tới, giáo dục đại học Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn sắp xếp, sáp nhập và tinh gọn hệ thống một cách toàn diện. Đây là bước đi mang tính chiến lược nhằm tái cấu trúc mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học theo hướng tinh giản nhưng hiệu quả. Mục tiêu cuối cùng của chủ trương này là xây dựng những trường đại học công lập có quy mô đủ lớn, vị thế tầm quốc gia, và đủ năng lực cạnh tranh ở cấp khu vực cũng như quốc tế.
Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh, đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng, đã chia sẻ với PV Báo Phụ nữ Việt Nam xung quanh những thác thức, cơ hội trong việc "sắp xếp, tái cấu trúc các trường đại học; sáp nhập, giải thể trường không đạt chuẩn; xóa bỏ cấp trung gian; nghiên cứu sáp nhập các viện nghiên cứu với trường đại học; chuyển một số trường về địa phương quản lý" trong Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết 71) trong bối cảnh hiện nay:
Nghị quyết 71 đánh dấu một bước ngoặt chiến lược, nhằm khắc phục tình trạng hệ thống đại học Việt Nam phát triển "nóng" theo chiều rộng trong ba thập kỷ qua, dẫn đến manh mún, nhỏ lẻ, lạc hậu và chưa đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh hiện nay - với Việt Nam đang hội nhập sâu rộng quốc tế, chuyển đổi số và cạnh tranh toàn cầu - nội dung này mang lại cơ hội lớn nhưng cũng đối mặt thách thức không nhỏ.
Đây là cơ hội tạo động lực phát triển bền vững cho ngành giáo dục. Bởi, việc sáp nhập và tái cấu trúc sẽ giảm đầu mối (từ khoảng 140 trường công lập xuống còn ít hơn, tập trung nguồn lực), hình thành các "tập đoàn giáo dục" mạnh, liên ngành, tự chủ toàn diện, hướng tới mô hình đại học nghiên cứu đẳng cấp quốc tế. Điều này giúp nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, đáp ứng nhu cầu nhân tài cho các lĩnh vực trọng điểm như công nghệ cao, kinh tế số. Ví dụ, sáp nhập viện nghiên cứu vào đại học sẽ tăng cường liên kết lý thuyết-thực tiễn, thúc đẩy hợp tác công-tư và quốc tế, đưa Việt Nam tiến gần hơn vào top 20 nền giáo dục thế giới theo mục tiêu Nghị quyết 71.
Cơ hội thứ hai là tối ưu hóa quản lý và đầu tư. Xóa bỏ cấp trung gian đảm bảo quản trị tinh gọn, thống nhất; chuyển trường về địa phương sẽ phù hợp hóa đào tạo với nhu cầu lao động địa phương, ưu tiên đầu tư cho trường trọng điểm quốc gia. Điều này cũng tạo cơ hội cho khối tư thục phát triển, hình thành thị trường giáo dục cạnh tranh lành mạnh, nơi chất lượng quyết định sự tồn tại.
Với cam kết ngân sách ít nhất 20% cho giáo dục và Chương trình mục tiêu quốc gia 2026-2035, đây là "cú hích" để hiện đại hóa cơ sở vật chất, chuyển đổi số, thu hút giảng viên quốc tế.
Tuy nhiên, ngành giáo dục đứng trước thách thức là tâm lý và kháng cự nội bộ. Nhiều trường nhỏ lo ngại mất danh vị, lãnh đạo và giảng viên có thể phản ứng tiêu cực do thay đổi vị trí, ảnh hưởng đến động lực làm việc. Việc chỉ định sáp nhập (không tự nguyện) có thể gây bất đồng, đòi hỏi công tác tư tưởng mạnh mẽ.
Ngoài ra việc sáp nhập cơ học có thể làm loãng nguồn lực, ảnh hưởng trường mạnh nếu không sàng lọc kỹ; giải thể trường yếu cần xử lý nhân sự, tài sản phức tạp. Bối cảnh kinh tế phục hồi sau đại dịch và lạm phát cao có thể hạn chế nguồn lực ban đầu.
Đảm bảo đạt chuẩn quốc tế (như kiểm định AUN-QA) trong khi chuyển giao về địa phương đòi hỏi năng lực quản lý địa phương nâng cao, tránh tình trạng "đổi tên đổi biển" mà không cải thiện thực chất.
Tổng thể, đây là chính sách tất yếu, không đột ngột mà dựa trên đánh giá thực trạng, với tầm nhìn dài hạn đến 2030-2045. Thành công phụ thuộc vào thể chế minh bạch, lộ trình nhân văn và cam kết đặt chất lượng – con người – sứ mệnh quốc gia làm trung tâm.

Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh.
- Theo bà thời điểm và thời gian thực hiện chủ trương này có đột ngột và vội vàng quá hay không?
Theo tôi, thời điểm ban hành Nghị quyết 71 và lộ trình triển khai không đột ngột hay vội vàng, mà là kết quả của quá trình đánh giá sâu sắc thực trạng giáo dục đại học Việt Nam – một hệ thống phát triển "nóng" tự phát từ 2005-2025, với số trường tăng gấp đôi (từ 137 lên 264) nhưng chất lượng phân tán, manh mún. Đây là chính sách tất yếu, kế thừa từ Nghị quyết 18-NQ/TW (2017) về tinh gọn bộ máy, và phù hợp bối cảnh Việt Nam cần nhân lực chất lượng cao cho tăng trưởng 8-9%/năm đến 2030.
Không đột ngột: Nghị quyết dựa trên dữ liệu thực tiễn (hệ thống lạc hậu, tiêu cực phổ biến), được thảo luận rộng rãi trong Bộ Chính trị và hội nghị toàn quốc (16/9/2025). Thời điểm ngay đầu năm học mới tạo "khí thế khởi đầu", với chuẩn bị từ 2025 (rà soát, đề án) để triển khai 2026, tránh ảnh hưởng năm học hiện tại.
Không vội vàng: Lộ trình kéo dài đến 2030, với giai đoạn thí điểm, đánh giá định kỳ, và cơ chế điều chỉnh. Chính phủ nhấn mạnh "khoa học, nhân văn", ưu tiên ổn định nhân sự, sinh viên. So với các nước như Trung Quốc (sáp nhập 100+ trường 2010-2020) hay Mỹ (hệ thống California với 10 campus), Việt Nam có thời gian hợp lý để học hỏi, tránh sai lầm.
Tóm lại, đây là "cú hích chiến lược" kịp thời, không phải "giải pháp tình thế", giúp giáo dục Việt Nam "cất cánh" mà không gây xáo trộn lớn.
- Làm sao để đảm bảo được chất lượng, chuẩn hóa, xóa bỏ "đại học yếu kém, manh mún", đảm bảo sáp nhập đại học không dừng lại ở việc thay tên đổi biển trường, thưa bà?
Để tránh sáp nhập chỉ là "thay tên đổi biển" (ghép cơ học mà không cải thiện), cần tập trung vào chuẩn hóa toàn diện, lấy chất lượng làm trung tâm theo tinh thần Nghị quyết 71. Các giải pháp cụ thể:
Xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn nghiêm ngặt: Sử dụng 6 tiêu chuẩn quốc gia (Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT): tổ chức quản trị tinh gọn, đội ngũ giảng viên đạt chuẩn quốc tế, cơ sở vật chất, tài chính minh bạch, chương trình đào tạo gắn doanh nghiệp, nghiên cứu sáng tạo. Giải thể trường không đạt; sáp nhập chỉ khi đánh giá tác động (impact assessment) chứng minh nâng cao chất lượng.
Tái cấu trúc chiến lược, không cơ học: Xây dựng đề án riêng cho từng cụm (ví dụ: sáp nhập viện nghiên cứu để tăng nghiên cứu liên ngành), ưu tiên mô hình "đại học tinh hoa" (nghiên cứu đẳng cấp quốc tế). Kiểm định độc lập (AUN-QA, quốc tế) trước và sau sáp nhập; xây dựng khung chiến lược quốc gia đến 2030, đảm bảo 100% trường đạt chuẩn quốc gia.
Giám sát và trách nhiệm giải trình: Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia giám sát, công khai dữ liệu (KPI chất lượng đầu ra, tỷ lệ việc làm sinh viên >90%). Khuyến khích tự chủ tài chính để trường cạnh tranh, loại bỏ "yếu kém" qua cơ chế thị trường (học phí linh hoạt, hợp tác doanh nghiệp).
Hỗ trợ chuyển tiếp: Đào tạo lại giảng viên, ưu tiên nguồn lực cho trường mới (ngân sách 20%, quỹ tài trợ). Đánh giá định kỳ 2026-2030 để điều chỉnh, tránh "đại học manh mún" tái diễn.
Những biện pháp này đảm bảo sáp nhập là "cú hích chất lượng", không chỉ tinh gọn mà còn nâng tầm giáo dục Việt Nam.

Đây được đánh giá là thời điểm tất yếu cho sáp nhập đại học. Ảnh minh họa
- Các trường đại học cần làm gì để sẵn sàng cho việc sắp xếp, sáp nhập tới đây?
Các trường đại học cần có hành động cụ thể như sau:
Thứ nhất là tự đánh giá và nâng cao nội lực. Rà soát ngay 6 tiêu chuẩn chất lượng (quản trị, giảng viên, cơ sở vật chất, tài chính, đào tạo, nghiên cứu); xây dựng kế hoạch tự chủ toàn diện (tuyển dụng giảng viên quốc tế, liên kết doanh nghiệp). Ưu tiên trường nhỏ: xác định sứ mệnh địa phương, đề xuất sáp nhập chủ động để tránh bị chỉ định.
Thứ hai là xây dựng chiến lược và hợp tác. Lập đề án tái cấu trúc nội bộ (xóa cấp trung gian, tinh gọn bộ máy); nghiên cứu liên kết với viện nghiên cứu/doanh nghiệp để tăng quy mô, chất lượng. Tham gia hội nghị, diễn đàn để chia sẻ kinh nghiệm (như mô hình Đại học Quốc gia).
Tiếp theo, các trường cần làm công tác tư tưởng và nhân sự. Lãnh đạo làm công tác tư tưởng cho cán bộ, giảng viên (giải thích lợi ích: nguồn lực lớn hơn, cơ hội thăng tiến); đào tạo kỹ năng quản trị mới, chuẩn bị kịch bản chuyển tiếp (luân chuyển nhân sự).
Bên cạnh đó cần sự minh bạch và giám sát. Công khai dữ liệu hoạt động trên website; tham gia kiểm định độc lập để chứng minh năng lực. Theo dõi lộ trình Bộ GD&ĐT (đề án 2025-2026), sẵn sàng báo cáo. Bằng cách này, trường không chỉ "sống sót" mà còn vươn lên mạnh mẽ, góp phần vào đột phá quốc gia.
Và cuối cùng, các trường làm sao để sắp xếp, sáp nhập, tinh gọn đại học không ảnh hưởng, gián đoạn việc học của sinh viên, nâng cao chất lượng sinh viên, sinh viên chất lượng đầu ra đáp ứng được thị trường lao động.
Sáp nhập có thể gây lo ngại gián đoạn, nhưng Nghị quyết 71 nhấn mạnh nguyên tắc "vận hành thông suốt, nhân văn", ưu tiên sinh viên làm trung tâm. Các giải pháp đảm bảo không ảnh hưởng học tập, đồng thời nâng cao chất lượng đầu ra.
Theo đó, thực hiện chủ trương phải tránh gián đoạn học tập, đảm bảo nâng cao chất lượng sinh viên và đáp ứng thị trường lao động. Tổng thể, sáp nhập sẽ biến thách thức thành cơ hội, giúp sinh viên tiếp cận giáo dục chất lượng cao, cạnh tranh toàn cầu mà không bị gián đoạn.
- Xin cảm ơn bà đã dành thời gian trao đổi!
Phá sản tích cực còn hơn giữ lại y nguyên
Đây là bước chuyển chiến lược, tạo ra sự cộng hưởng tích cực. Tuy nhiên, các trường sáp nhập cần có sự phù hợp với văn hóa, cách điều hành của các trường và định hướng phát triển của các trường. Việc sáp nhập giữa các đội ngũ giảng viên, nhân viên và sinh viên của các trường khác nhau có thể gặp phải một số khó khăn, đặc biệt là về văn hóa tổ chức, quy trình làm việc và chất lượng giảng dạy. Nên cần có các biện pháp để hòa nhập, thống nhất các quy chế, quy định đã được ban hành.
Đồng thời, việc tái cấu trúc diễn ra có chọn lọc, nên cho "phá sản tích cực" những trường yếu kém về tuyển sinh, về đội ngũ, về nghiên cứu khoa học, không còn thực hiện được trách nhiệm và sứ mệnh xã hội. Đồng thời gom các nguồn lực cần thiết dồn lực phát triển ở các cơ sở giáo dục đại học lớn mạnh.
Chỉ như vậy chúng ta mới để thực hiện các mục tiêu lớn trong giáo dục đại học về xếp hạng, phát triển đội ngũ, nghiên cứu khoa học… mà Nghị quyết 71 đã đặt ra.
Ý tưởng sáp nhập 140 trường yếu vào các trường mạnh nghe thì "hợp lý trên giấy" nhưng khi triển khai thực tế thì không giống như "ráp Lego", sẽ có những mảnh không khớp, phải tính toán cực kỳ kỹ trước khi sáp nhập.
Thứ nhất sáp nhập theo khu vực địa lý. Phương án này có lợi thế giảm trùng lặp cơ sở vật chất, thuận tiện cho người học (ít phải di chuyển xa). Tuy nhiên, các trường mạnh trong khu vực chưa chắc đã cùng ngành, có thể "cõng" thêm một khối nặng mà không phát huy thế mạnh chung.
Thứ hai là theo nhóm ngành/lĩnh vực. Bởi, các trường có chuyên ngành gần nhau sẽ bổ trợ nhau, tạo thành trường chuyên sâu hoặc trường đa ngành nhưng cân bằng hơn. Tuy nhiên, điều này đôi khi kéo theo vấn đề phân tán địa lý, phải quản lý từ xa, khó vận hành thống nhất.
Thứ ba là theo mô hình "vệ tinh – hạt nhân": Một trường mạnh (hạt nhân) giữ thương hiệu, còn các trường yếu nhập vào trở thành phân hiệu hoặc cơ sở vệ tinh. Điều này củng cố được thương hiệu, hệ thống quản trị tập trung. Nhưng nguy cơ mất bản sắc, tâm lý giảng viên, sinh viên trường nhập vào bị "lép vế".
Thứ tư là theo định hướng "đại học ứng dụng – đại học nghiên cứu": Một số trường yếu không nhất thiết phải nhập hẳn, mà tái cấu trúc. Trường đó nhập vào các trường nghiên cứu để tăng thực lực khoa học, hoặc chuyển hướng thành trường ứng dụng, cao đẳng nghề để tránh giẫm chân. Bởi cách này sẽ giúp đa dạng hóa hệ thống, rõ phân tầng. Nhưng để làm tốt theo hướng này, chúng ta cần khung pháp lý và lộ trình rất rõ.
Không nên chỉ nhập theo kiểu "gom lại cho ít đầu mối", mà phải nhìn vào bản đồ ngành nghề quốc gia để tránh dư thừa nhân lực một số ngành. Cụ thể là quy hoạch phát triển vùng, để tránh bỏ trống nguồn lực địa phương; tính cạnh tranh toàn cầu, tạo ra vài đại học top khu vực thay vì 200 trường "na ná nhau".
Thạc sĩ Phạm Thái Sơn, Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông, trường Đại học Công Thương TPHCM
* Chủ trương sắp xếp, tái cấu trúc hệ thống các trường đại học - bao gồm việc sáp nhập hoặc giải thể những cơ sở không đạt chuẩn theo Nghị quyết 71 - không chỉ mang tính tổ chức lại hệ thống giáo dục đại học một cách bài bản, mà còn mở ra nhiều cơ hội đáng kể cho sinh viên.
Sinh viên có thể tiếp cận dễ dàng hơn với các chương trình văn bằng hai, mở rộng cơ hội giao lưu, học hỏi với bạn bè từ các trường sáp nhập, đồng thời tăng khả năng tiếp cận các viện nghiên cứu, doanh nghiệp và tổ chức xã hội - từ đó nâng cao triển vọng nghề nghiệp, cơ hội du học và phát triển toàn diện hơn.
Tuy nhiên, quá trình tái cấu trúc này cũng đặt ra yêu cầu cao hơn đối với người học - đòi hỏi mỗi sinh viên phải chủ động thích nghi, không ngừng nâng cao năng lực cá nhân, kỹ năng chuyên môn cũng như chất lượng đầu ra để đáp ứng kỳ vọng mới trong một môi trường đào tạo ngày càng cạnh tranh và hội nhập sâu rộng.
Đỗ Trọng Hoàng (Sinh viên năm nhất, Đại học Kinh tế Quốc dân)
* Là sinh viên, tôi ủng hộ chủ trương sáp nhập các trường đại học và giải thể những cơ sở đào tạo không đạt chuẩn. Đây là bước đi cần thiết nhằm nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục đại học, tạo ra môi trường học tập cạnh tranh, hiện đại và thực chất hơn.
Tuy nhiên, ở vị trí người học, tôi kỳ vọng Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ có định hướng sáp nhập một cách hợp lý - ưu tiên gộp các trường có chất lượng sinh viên đầu vào tương đương nhau. Việc sáp nhập giữa những trường có sự chênh lệch quá lớn về chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất hay đội ngũ giảng viên có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối trong môi trường học thuật, ảnh hưởng đến trải nghiệm và chất lượng đầu ra của sinh viên.
Sự sáp nhập nếu được thực hiện có chọn lọc, khoa học và minh bạch không chỉ tạo ra những đại học mạnh hơn mà còn đảm bảo quyền lợi và cơ hội phát triển công bằng cho tất cả người học.
Hoàng Mai Trang (Sinh viên Đại học học Bách Khoa Hà Nội)
(Còn nữa)