Theo đó, sau gần 4 tháng triển khai dịch vụ chuyển mạng giữ nguyên số, nhà mạng Mobifone có số thuê bao chuyển đến là 30.675, trong khi thuê bao chuyển đi là 48.420 thuê bao. Đặc biệt, thuê bao chuyển đi chỉ đạt 43%, trong khi thuê bao chuyển đến đạt gần 73%. Con số này cho thấy, số thuê bao chuyển đi vẫn đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, hoặc do chính bản thân các thuê bao còn nợ cước, thông tin thuê bao chưa chính xác…
Nhà mạng Vinaphone có số thuê bao chuyển đến nhiều nhất với 98.361 thuê bao, số thuê bao chuyển đi là 63.153, tỷ lệ thuê bao chuyển đến thành công đạt 76,7%, tỷ lệ chuyển đi thành công đạt 72,3%.
Nhà mạng Viettel có số thuê bao chuyển đi nhiều nhất, với 98.512 thuê bao, số thuê bao chuyển đến 94.780 thuê bao. Tỷ lệ thuê bao chuyển đến thành công đạt 62,3%, tỷ lệ chuyển đi thành công đạt cao nhất trong số 4 nhà mạng, gần 86%.
Nhà mạng Vietnamobile có 1.036 thuê bao chuyển đến, 14.767 thuê bao chuyển đi. Tỷ lệ thuê bao chuyển đến thành công là 33,6%, tỷ lệ chuyển đi thành công đạt gần 41%.
Cũng tính đến ngày 24/3, đã có 55.472 thuê bao bị từ chối cung cấp dịch vụ chuyển mạng do không đáp ứng các điều kiện như sai thông tin thuê bao, đang nợ cước... Trong đó, nhà mạng Mobifone có số thuê bao bị từ chối nhiều nhất, với 23.951 thuê bao bị từ chối, Vinaphone có 14.037 thuê bao, Viettel có 9.176 thuê bao và Vietnamobile có 8.308 thuê bao.
So với thời gian đầu khi triển khai dịch vụ chuyển mạng giữ nguyên số, tỷ lệ thuê bao đăng ký chuyển đổi thành công của các nhà mạng đang tăng dần. Theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, trong tháng 3 này, các nhà mạng phải nâng tỷ lệ thuê bao chuyển đổi thành công ngay đạt tối thiểu 90%.
Dịch vụ chuyển mạng giữ số được đánh giá có rất nhiều lợi ích với người dân và doanh nghiệp, như khả năng lựa chọn doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phù hợp với nhu cầu của chủ thuê bao trong khi vẫn giữ được số điện thoại, xóa bỏ rào cản phải thay số điện thoại mới, gây phiền phức trong công việc và sinh hoạt của người sử dụng; là động lực cho doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp viễn thông; đồng thời đáp ứng mục tiêu quản lý của cơ quan quản lý nhà nước.