pnvnonline@phunuvietnam.vn
Gần 14% nữ thanh niên không có việc làm và không học tập, đào tạo
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang
Sáng 6/11, tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn Quốc hội, thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã báo cáo tóm tắt tổng hợp việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn nhiệm kỳ khóa XV cùng một số nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIV.
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang cho biết, về các lĩnh vực kế hoạch và đầu tư; tài chính; ngân hàng, chính sách tiền tệ, từ đầu năm 2023, đã 4 lần giảm lãi suất điều hành với mức giảm 0,5-2%; triển khai gói tín dụng 120.000 tỉ đồng cho nhà ở xã hội, 15.000 tỉ đồng cho lâm sản, thủy sản; tập trung vốn tín dụng cho các động lực tăng trưởng, lĩnh vực ưu tiên.
Tuy nhiên, tiến độ hoàn thành các quy hoạch ngành, vùng, quy hoạch tỉnh còn chậm. Giải ngân vốn đầu tư công, triển khai chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp vay trong gói 40.000 tỉ đồng của chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu. Việc sắp xếp, cơ cấu lại, cổ phần hóa các doanh nghiệp còn chậm.
Tiếp cận tín dụng còn hạn chế, tăng trưởng tín dụng thấp, nợ xấu có xu hướng tăng; việc xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém gặp nhiều khó khăn do phải đánh giá đúng giá trị tài sản đã qua nhiều thời kỳ…
Về các lĩnh vực công thương, nông nghiệp và phát triển nông thôn; giao thông vận tải; xây dựng; tài nguyên và môi trường, đã chỉ đạo tập trung hoàn thiện, ban hành quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia và quy hoạch phát triển điện lực quốc gia. Phát triển mạnh thị trường trong nước gắn với mở rộng, đa dạng hóa thị trường quốc tế, nâng cao chất lượng sản phẩm, khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết.
Chính phủ đã trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư 6 dự án giao thông trọng điểm quốc gia với tổng vốn đầu tư gần 400.000 tỉ đồng. Đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng, hoàn thiện thủ tục khởi công toàn bộ các dự án được Quốc hội thông qua.
Từ năm 2021 đến nay, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng 659km đường bộ cao tốc, nâng tổng chiều dài đưa vào khai thác là 1.822km; phấn đấu đến hết năm 2025 hoàn thành và vượt mục tiêu 3.000km đường cao tốc… Tập trung chỉ đạo tổng kết, hoàn thiện, trình Quốc hội dự án Luật Đất đai (sửa đổi)…
Tuy nhiên, công tác giải phóng mặt bằng, triển khai thi công của một số dự án hạ tầng trọng điểm, nhất là hạ tầng năng lượng và giao thông còn chậm. Chưa ban hành kế hoạch triển khai quy hoạch điện VIII, quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn, quy định về hoạt động lấn biển; thị trường bất động sản còn khó khăn…
Về các lĩnh vực khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; văn hóa, thể thao và du lịch; y tế; lao động - thương binh và xã hội; thông tin và truyền thông, công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, chăm lo và phát huy vai trò người cao tuổi, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ... được quan tâm. Theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới năm 2023 của Liên Hợp Quốc, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 tăng 12 bậc, từ vị trí 77 lên vị trí 65.
Đã cơ bản hoàn thành sắp xếp các cơ quan báo chí theo quy hoạch; kịp thời chấn chỉnh, xử lý tình trạng "báo hóa" tạp chí, biểu hiện "tư nhân hóa" báo chí.
Nguồn lực đầu tư cho văn hóa từng bước được khơi thông. Phong trào thể thao quần chúng được thúc đẩy mạnh mẽ; thể thao thành tích cao đạt nhiều kết quả tích cực. Lần đầu tiên Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia dự vòng chung kết thế giới.
Đã hoàn thiện hành lang pháp lý thực hiện đổi mới, phát triển giáo dục và đào tạo; triển khai hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông 2018.
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục đào tạo, dạy nghề có mặt còn hạn chế; tình trạng thừa thiếu cục bộ giáo viên mầm non, phổ thông vẫn chưa được giải quyết dứt điểm; cải cách sách giáo khoa chưa đáp ứng yêu cầu.
Tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế cục bộ chưa được khắc phục triệt để. Số người lao động mất việc làm, giảm giờ làm, rút bảo hiểm xã hội một lần gia tăng cục bộ…
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý III/2023 là 7,86%; trong đó tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 10,35%; khu vực nông thôn là 6,60%. Tỷ lệ thanh niên không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo ở khu vực nông thôn là 13,5%, khu vực thành thị là 9,8%; nữ thanh niên không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo là 13,9%; nam là 10,4%.