Giải pháp ngăn chặn bóc lột và lạm dụng tình dục trẻ em trực tuyến

Ảnh minh họa
Tội phạm mạng đang hoành hành với tốc độ chóng mặt, liên tục cập nhật các hình thức dụ dỗ, đe dọa và bóc lột trẻ em gái bằng clip nhạy cảm. Các chuyên gia cảnh báo: Chính sách và pháp luật đang trở nên “hụt hơi”, khiến hành lang pháp lý bảo vệ không theo kịp, làm việc điều tra, quy kết tội danh vô cùng khó khăn khiến nhóm yếu thế rơi vào rủi ro, nguy hiểm.
Nhiều vụ việc xâm hại tình dục trực tuyến liên tiếp được phát hiện đã gióng lên hồi chuông cảnh báo. Một thiếu nữ 16 tuổi ở Hà Nội bị bạn chơi game dụ dỗ gửi clip nhạy cảm rồi bị đe dọa tống tiền. Tại An Giang, một đối tượng dùng ảnh, clip riêng tư để uy hiếp bạn gái cũ, buộc nạn nhân đưa hàng chục triệu đồng nếu không sẽ phát tán lên mạng xã hội. Những tình huống này cho thấy phụ nữ và trẻ em gái đang trở thành mục tiêu dễ tổn thương nhất trong không gian mạng đầy cạm bẫy.
Phát biểu tại Hội thảo Khoa học "Phụ nữ và trẻ em gái trong xã hội chuyển đổi số: Cơ hội và Thách thức" do Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức vừa qua, TS. Phùng Thanh Thảo - Đại học Kiểm sát - nhấn mạnh việc cần hành lang pháp lý vững chắc, kỹ năng số an toàn và sự hợp tác liên ngành để bảo vệ nhóm yếu thế trên không gian mạng.
Hình thức tinh vi, hậu quả nghiêm trọng
Theo phân tích của TS. Phùng Thanh Thảo, các hành vi xâm hại tình dục trực tuyến ngày càng đa dạng, từ dụ dỗ, đe dọa, phát tán, chia sẻ hình ảnh riêng tư cho tới tống tiền. Đặc biệt, kẻ xấu lợi dụng tính ẩn danh, mã hóa và lan truyền nhanh của mạng xã hội để che giấu tung tích, khiến quá trình điều tra và xử lý vụ việc gặp rất nhiều khó khăn.

TS. Phùng Thanh Thảo - Đại học Kiểm sát - chia sẻ tại Hội thảo Khoa học "Phụ nữ và trẻ em gái trong xã hội chuyển đổi số: Cơ hội và Thách thức"
Thực tế, không ít nạn nhân rơi vào vòng xoáy khủng hoảng tâm lý, lo âu, trầm cảm, thậm chí dẫn tới ý định tự tử. TS. Thảo dẫn chứng: Có trường hợp bé gái 15 tuổi bị tống tiền bằng clip riêng tư đã phải thực hiện hành vi trộm cắp để có tiền trả nhưng số tiền thiệt hại dồn dập khiến cả gia đình mất hơn 300 triệu đồng trước khi sự việc được trình báo.
Bên cạnh tổn thương tinh thần, nhiều vụ việc còn để lại hậu quả thể chất, thậm chí đe dọa tính mạng. Nạn nhân có thể bị giết để xóa dấu vết, gây ra những mất mát không thể bù đắp cho gia đình và xã hội.
Một điểm đáng chú ý là các nền tảng mạng xã hội phổ biến như Facebook và Zalo được xác định là "điểm nóng" của các hành vi phát tán hình ảnh nhạy cảm, vu khống, quấy rối tình dục. Đối tượng phạm tội còn giả danh, sử dụng hình ảnh thiếu niên để tiếp cận, dụ dỗ và khai thác các em gái vị thành niên.
Khó khăn càng lớn hơn khi tội phạm ẩn mình sau những lớp bảo mật, mã hóa và máy chủ phân tán ở nhiều nơi. "Có trường hợp xác định máy chủ ở miền Bắc nhưng chỉ sau ít phút lại xuất hiện ở miền Nam. Tính chất phân tán này khiến việc điều tra vô cùng khó khăn", TS. Thảo nhấn mạnh.
Trong khi đó, một nguyên nhân quan trọng khác đến từ sự thiếu nhận thức và hạn chế hiểu biết pháp luật. Nhiều nạn nhân không biết hành vi phát tán hình ảnh riêng tư là vi phạm, cũng không rõ phải trình báo ở đâu. Không ít gia đình khi bị tống tiền vài chục triệu đồng lại chấp nhận trả để "êm chuyện", vô tình dung dưỡng cho tội phạm.
Không dừng ở tổn thương cá nhân, vấn nạn này còn gây tác động tiêu cực tới an sinh xã hội, tạo ra tâm lý bất an, mất niềm tin vào không gian mạng - nơi lẽ ra phải an toàn để học tập, làm việc và kết nối.

Thế giới số - nơi mở ra ngàn cơ hội nhưng cũng giăng đầy cạm bẫy
Khoảng trống pháp lý và thách thức chính sách trong kỷ nguyên số
Một thực tế khác được TS. Phùng Thanh Thảo chỉ ra là hệ thống pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về xâm hại tình dục trẻ em và phụ nữ trên không gian mạng. Các hành vi thường chỉ được xử lý dưới tội danh "xâm hại tình dục" hoặc "quấy rối", trong khi hình thức phạm tội trực tuyến có đặc thù riêng: ẩn danh, mã hóa, phát tán nhanh, khó thu thập chứng cứ. "Nhiều trường hợp, dù nạn nhân đã cung cấp hình ảnh nhưng khi cơ quan chức năng kiểm tra thì dữ liệu ở máy đối tượng đã bị xóa, khiến quá trình chứng minh rất phức tạp", TS. Thảo phân tích.
Từ thực tiễn nghiên cứu và điều tra, bà đề xuất 3 nhóm giải pháp trọng tâm:
Hoàn thiện khung pháp luật và chính sách: Bổ sung quy định cụ thể về xâm hại tình dục trực tuyến, coi đây là một tội danh độc lập để tăng tính răn đe và xử lý hiệu quả.
Nâng cao năng lực thực thi pháp luật: Đào tạo chuyên sâu cho lực lượng chức năng về kỹ năng nhận diện, thu thập và bảo quản chứng cứ điện tử; đồng thời, thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm đối phó tội phạm xuyên biên giới.
Đẩy mạnh giáo dục phát luật, truyền thông: Nâng cao nhận thức cộng đồng, đặc biệt với phụ nữ và trẻ em, về nguy cơ, hậu quả pháp lý của việc chia sẻ thông tin cá nhân và cách thức trình báo khi gặp sự cố.
Đáng chú ý, TS. Thảo nhấn mạnh sự cần thiết của hợp tác liên ngành và quốc tế để tạo dựng môi trường mạng an toàn. Bởi chỉ khi cả hệ thống cùng hành động, mới có thể giảm thiểu tác động của tội phạm công nghệ cao, bảo vệ nhóm yếu thế trong bối cảnh xã hội số.

GS.TS Nguyễn Hữu Minh - Chủ tịch Hội Xã hội học Việt Nam
Từ góc độ xã hội học, GS.TS Nguyễn Hữu Minh, Chủ tịch Hội Xã hội học Việt Nam, nhận định rằng việc trang bị nhận thức và kỹ năng số cho cộng đồng chỉ là một phần của giải pháp. Vấn đề cốt lõi và khó khăn lớn hơn nằm ở việc làm thế nào để có thể thuyết phục và quy kết tội danh rõ ràng cho các hành vi phạm tội trong môi trường số.
Vị Giáo sư thẳng thắn chỉ ra sự chênh lệch về tốc độ giữa quá trình chuyển đổi số và khả năng theo kịp của chính sách, pháp luật. "Chuyển đổi số thì diễn ra quá nhanh, trong khi biện pháp, chính sách lại theo rất khó, chỉ riêng việc phải đợi Quốc hội họp đã mất rất nhiều thời gian, trong lúc đó thì các hình thức lừa đảo, bóc lột trực tuyến hôm nay thế này, ngày mai đã cập nhật rồi, xoay không kịp". Đây là lý do đòi hỏi cần phải có sự đầu tư mạnh mẽ hơn nữa vào chính sách và pháp luật để tạo ra hành lang pháp lý đủ sức nặng và linh hoạt.
Để giải quyết tình trạng "xoay không kịp" này, GS.TS Nguyễn Hữu Minh cho rằng cần học tập kinh nghiệm quốc tế. Ông dẫn chứng trường hợp như Australia, nơi đã có những quy định về việc hợp tác giữa chính phủ với các nền tảng mạng xã hội để chủ động ngăn chặn các hành vi bóc lột và lạm dụng trực tuyến.
"Đây là điểm rất cần quan tâm trong thời gian tới để xem xét khả năng áp dụng trong bối cảnh Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu sâu hơn sự khác biệt giới trong các dạng lạm dụng trực tuyến sẽ giúp hoạch định chính sách cụ thể, phù hợp hơn cho thực tiễn", GS.TS Nguyễn Hữu Minh cho biết.