Hành trình của người mẹ đưa con tự kỷ thành thiên tài Vật lý
02/04/2018 - 22:56
Bị tự kỷ từ năm 2 tuổi, Jacob Barnet (20 tuổi) hiện là một trong những nhà nghiên cứu Vật lý tiềm năng nhất thế giới. Chính lòng thương yêu, sự tận tụy, sự kiên nhẫn, động viên của người mẹ đã mang lại thành công cho chàng trai.
“Trong mỗi đứa trẻ luôn có một tia sáng cần khai phá”, bà Kristine Barnet nhắn nhủ đến tất cả những bậc phụ huynh, đặc biệt là những người có con bị tự kỷ. Theo lời kể của bà, Jacob Barnet ra đời năm 1998 nhưng bà Kristine đã phát hiện ra việc con trai mình không bình thường khi lên 2. “Con không nói được bất cứ từ nào, không giao tiếp bằng mắt với người khác cũng như chẳng hề phản ứng gì khi có người gọi tên. Con cũng đẩy người khác ra khi ai đó ôm con vào lòng”, bà Kristine hồi tưởng.
Bác sĩ đã chẩn đoán con trai bà bị tự kỷ khi lên 2 tuổi. Họ nói rằng cậu sẽ không bao giờ biết đọc, biết viết, thậm chí là những hoạt động bình thường như buộc dây giày. Thế nhưng, bà Kristine đã vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để nuôi dưỡng Jacob trở thành một thiên tài Vật lý với chỉ số IQ 170, cao hơn hai nhà bác học Albert Einstein và Stephen Hawking (chỉ số IQ 160).
Cậu bé gần như sống trong thế giới im lặng. Theo lời khuyên của các chuyên gia, bà Kristine cho con trai tham gia các chương trình điều trị chuyên sâu với các nhà tâm lý, trị liệu ngôn ngữ hơn 60 giờ/tuần... Tuy nhiên, mọi nỗ lực đều thất bại. Hầu hết chuyên gia và giáo viên đều chỉ lặp lại câu nói khiến cha mẹ Jacob đau lòng: "Cậu bé hầu như không còn hy vọng".
Dù vậy, người mẹ chưa từng một lần từ bỏ cố gắng giúp con trai trở thành cậu bé bình thường. Dẫu bà là giáo viên mẫu giáo nhưng thay vì cho Jacob học mẫu giáo truyền thống, bà quyết định tự dạy học cho con. Bà Kristine chọn cách khuyến khích con qua các hoạt động yêu thích và chính những lựa chọn phi thường đã nuôi dưỡng khả năng của cậu bé.
Khi nhận thấy Jacob có hứng thú với thiên văn học, bố mẹ Jacob bắt đầu nuôi dưỡng lòng ham hiểu biết của em về lĩnh vực này. Họ mua nhiều sách cho Jacob và thường xuyên dẫn em đi tham quan nhà mô hình vũ trụ. Không phụ lòng trăn trở và nỗ lực của mẹ, năm 3 tuổi, Jacob đã có thể giải thích những quy luật về quỹ đạo hành tinh từ việc xoay tròn trái bóng. 4 tuổi, Jacob đã nhớ khái quát được bản đồ nước Mỹ, có thể chơi piano mà không cần học và có thể định hướng từ nhà cậu ở Indianapolis, Indiana đến Chicago (2 địa điểm cách nhau khoảng 350 km).
Năm Jacob 8 tuổi, bà Kristine quyết định cho con thôi học trường cấp 3 và đưa cậu đến đại học IUPUI để theo lớp vật lý - thiên văn nâng cao. Ở đây, Jacob nhanh chóng bộc lộ tài năng học tập thiên phú. Cậu tự học tích phân trong vòng 2 tuần và bắt đầu nghiên cứu học thuyết vật lý thiên văn năm 9 tuổi.
Thường khó ngủ vào ban đêm, Jacob đã tự nghiên cứu Thuyết tương đối của Einstein và cố gắng mở rộng nó. Cậu viết các phương trình trên giấy, bảng, lên cửa sổ hoặc bất cứ mặt phẳng nào có thể. Nhiều người thậm chí còn cho rằng cậu sẽ sớm thay thế các nhà khoa học thế hệ cũ như Einstein.
Jacob trở thành nhà nghiên cứu vật lý lượng tử và có thể đọc thuộc lòng 205 chữ số của số pi ở tuổi 12. Năm 14 tuổi, cậu bé tự kỷ từng được cho là bị thiểu năng trí tuệ học thạc sĩ vật lý lượng tử.
Viện Vật lý Lý thuyết Perimeter ở thành phố Waterloo (bang Ontario, Canada) được coi là một trong những cơ sở giáo dục đào tạo các nhà vật lý tài năng. Stephen Hawking là nhà Vật lý nổi tiếng nhất từng học tập và nghiên cứu tại đây. Để có thể trở thành học viên của viện, ứng viên cần có nhiều tố chất, cũng như thành tích nổi bật. Ít ai có thể tưởng tượng một cậu bé mới 15 tuổi như Jacob có thể trở thành nghiên cứu sinh tiến sĩ của viện này. Jacob là nghiên cứu sinh nhỏ tuổi nhất trong lịch sử hoạt động của Viện Vật lý Lý thuyết Perimeter. Thành tích học tập của Jacob khiến bất cứ nhà quản lý đào tạo nào cũng phải nể phục.
Sau khi xem công trình nghiên cứu của cậu bé, Giáo sư Scott Tremaine (Đại học Princeton, Mỹ) nhận xét: "Kiến thức mà Jacob nghiên cứu bao gồm những vấn đề phức tạp nhất trong Vật lý học Thiên thể và Vật lý Lý thuyết. Bất cứ ai giải quyết được chúng đều sẽ giành giải Nobel". Tài liệu nghiên cứu của Jacob sau đó được xuất bản tại Đại học Indiana.