pnvnonline@phunuvietnam.vn
Lồng ghép giới trong tiếp cận dịch vụ khuyến nông và tài chính

Trồng cà phê là hướng đi phù hợp với điều kiện kinh tế của người Ê đê ở Đắk Lắk
PV: Thưa ông, ông có thể chia sẻ lý do lựa chọn nghiên cứu vấn đề tiếp cận dịch vụ khuyến nông và tài chính ở phụ nữ vùng dân tộc thiểu số?
TS. Nguyễn Văn Chung: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tại xã Ea Drông (thị xã Buôn Hồ, Đắk Lắk) - hiện nay một phần xã Ea Blang được sáp nhập vào xã Ea Drông (mới), tỉnh Đắk Lắk nơi có hơn 81% dân số là người dân tộc thiểu số, chủ yếu là người dân tộc Ê Đê.
Địa điểm nghiên cứu này điển hình cho nhiều khu vực DTTS khác ở Tây Nguyên, nơi hoạt động sản xuất nông nghiệp là sinh kế chủ yếu của người dân nơi đây, nhưng người dân, đặc biệt là phụ nữ,còn gặp một số hạn chế trong tiếp cận các dịch vụ phát triển kinh tế như khuyến nông hay tài chính.
Phụ nữ trong nhóm hộ khảo sát thường là người đảm nhận chính trong công việc nhà và hoạt động chăn nuôi, trong khi nam giới thường tham gia chính vào hoạt động trồng trọt và chịu trách nhiệm chính trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên mức độ tiếp cận dịch vụ khuyến nông và tài chính có sự khác biệt giữa nam giới và phụ nữ. Mặc dù mức độ chênh lệch giới trong việc tiếp cận dịch vụ khuyến nông và tài chính không quá lớn, nhưng kết quả khảo sát cho thấy nam giới thường tiếp cận hay hiểu biết về các dịch vụ này nhiều hơn so với nữ giới.
Sự khác biệt này phần nào phản ánh vai trò và điều kiện tiếp cận thông tin kỹ thuật và tài chính chưa đồng đều giữa hai giới trong hộ gia đình. Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng tham gia của phụ nữ trong quá trình ra quyết định liên quan đến sản xuất, từ đó làm giảm cơ hội đóng góp và phát triển kinh tế của họ trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng cần sự tham gia đa chiều.

Tập huấn trồng nấm sò nấm bào ngư cho chị em dân tộc ở Đắk Lắk
Vậy nên, nghiên cứu này nhằm làm rõ thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ trong cộng đồng DTTS.
PV: Qua khảo sát, nhóm nghiên cứu nhận thấy những khó khăn gì đối với phụ nữ vùng DTTS trong tiếp cận dịch vụ khuyến nông?
TS. Nguyễn Văn Chung: Kết quả khảo sát 109 hộ gia đình tại điểm nghiên cứu, trong đó có sự tham gia của 60 phụ nữ và 49 nam giới đại diện hộ, cho thấy mức độ tiếp cận dịch vụ khuyến nông còn thấp. Chỉ 14,7% số hộ có gặp và trao đổi với cán bộ kỹ thuật trong năm qua, tỷ lệ này ở phụ nữ là 11,7% trong khi ở nam là 18,4%.
Việc phụ nữ ít gặp cán bộ kỹ thuật không hẳn vì họ không quan tâm, mà do đặc điểm phân công lao động trong gia đình. Phụ nữ chủ yếu ở nhà, lo nội trợ và chăn nuôi, còn việc ra ngoài gặp cán bộ thường do nam giới đảm nhận.
Ngoài ra, do quan điểm của phụ nữ thường nghĩ rằng, nam giới có hiểu biết tốt hơn nên khi gặp gở họ sẽ trao đổi được nhiều hơn và thực hiện được hiệu quả hơn. Chính vì vậy, các lớp tập huấn về trồng trọt có tới 63,6% người tham gia là nam, trong khi phụ nữ chỉ chiếm 36,4%.
Ngược lại, trong các lớp tập huấn về chăn nuôi, phụ nữ lại tham gia nhiều hơn (60%), vì họ tham gia chính vào hoạt động này.
Những kết quả trên cho thấy sự phân công vai trò theo giới vẫn hiện hữu, nó phần nào ảnh hưởng đến cơ hội tiếp cận thông tin kỹ thuật của phụ nữ.
PV: Còn đối với dịch vụ tài chính, phụ nữ vùng DTTS có gặp nhiều rào cản không, thưa ông?
TS. Nguyễn Văn Chung: Điều đáng mừng là tỷ lệ tiếp cận dịch vụ tài chính của cả nam và nữ khá cao. 98,3% phụ nữ và 93,9% nam giới được khảo sát cho biết có tiếp cận các dịch vụ vay tiền mặt hoặc ứng trước vật tư.
Tỷ lệ phụ nữ vay tiền mặt (46,7%) và ứng vật tư (86,7%) đều cao hơn nam giới (42,9% và 81,6%). Điều đó cho thấy phụ nữ có vai trò ngày càng lớn trong việc đảm bảo nguồn lực cho sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, khi phân tích sâu hơn, chúng tôi nhận thấy khả năng tiết kiệm từ các nguồn thu nhập của phụ nữ còn hạn chế. Chỉ 1,7% phụ nữ có tiết kiệm từ thu nhập, dù mức tiết kiệm trung bình lại cao hơn nam giới (25 triệu đồng/năm so với 20 triệu đồng).

Rang cà phê theo cách truyền thống của người Ê đê
Về kiến thức tài chính, tỷ lệ phụ nữ "không biết" về tín dụng, đầu tư tài chính dao động từ 78 % - 91%, cao hơn so với nam giới. Điều này cho thấy, ngoài việc tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính cho phụ nữ, cần có sự hỗ trợ để nâng cao kỹ năng quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính một cách hiệu quả.
PV: Vậy theo ông, cần làm gì để nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ vùng DTTS trong bối cảnh nghiên cứu này?
TS. Nguyễn Văn Chung: Nghiên cứu đã đề xuất ba nhóm giải pháp trọng tâm: Thứ nhất, tăng cường tiếp cận dịch vụ khuyến nông. Các chương trình khuyến nông cần được thiết kế phù hợp hơn với phụ nữ, tổ chức vào khung giờ linh hoạt, sử dụng ngôn ngữ địa phương, lồng ghép nội dung thực tiễn như kỹ thuật chăn nuôi, cách sử dụng vật tư nông nghiệp an toàn.
Ngoài ra, cần khuyến khích phụ nữ tham gia các buổi tư vấn kỹ thuật tại cộng đồng để tăng cường sự chia sẻ và học hỏi lẫn nhau giữa những người cùng tham gia.
Thứ hai, mở rộng tiếp cận tài chính đi kèm đào tạo kỹ năng. Cần nhân rộng mô hình tín dụng vi mô, tổ chức các nhóm tiết kiệm - tín dụng tự quản tại cộng đồng để phụ nữ có thể dễ dàng vay vốn và học hỏi lẫn nhau.
Song song đó là tổ chức các lớp nâng cao kiến thức quản lý tài chính cơ bản như lập kế hoạch chi tiêu, quản lý dòng tiền, hiểu về lãi suất, tín dụng...
Thứ ba, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào quá trình ra quyết định trong gia đình và cộng đồng. Phụ nữ cần được khuyến khích tham gia vào các tổ chức như hội nông dân, hợp tác xã, nhóm sản xuất… để tăng cơ hội đóng góp ý kiến và tự tin trong các quyết định trong lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Tất nhiên, để thực hiện hiệu quả những giải pháp trên, cần sự vào cuộc đồng bộ của các cấp chính quyền, các đoàn thể xã hội và đặc biệt là sự thay đổi nhận thức trong chính cộng đồng về vai trò, vị thế của người phụ nữ.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!