pnvnonline@phunuvietnam.vn
"Nghe" kỷ vật kể chuyện nhà báo nữ

Đến với Bảo tàng Báo chí Việt Nam (quận Cầu Giấy, Hà Nội) những ngày này, hòa mình trong không gian của hàng nghìn hiện vật, cùng "nghe" kỷ vật kể chuyện nghề, chuyện đời của những nhà báo - chiến sỹ để sống lại một thời hoa lửa, thêm trân trọng và tri ân những nữ nhà báo dũng cảm, kiên trung, tận hiến với nghề.
Những tấm thẻ mang đầy trọng trách...
Xuất thân trong một gia đình trí thức ở Huế, nhà báo, nhà thơ Nguyễn Khoa Bội Lan (Bội Lan) khi còn là nữ sinh Trường Đồng Khánh đã tích cực tham gia các phong trào đoàn thể của sinh viên. Bà cũng là thành viên nòng cốt của phong trào đấu tranh đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Chu Trinh năm 1927. Nghiệp viết đến với bà từ rất sớm, trong khi tuổi đời dài hơn một thế kỷ, có lẽ vì vậy mà việc bà trở thành nữ nhà báo có tuổi nghề dài nhất không phải là điều lạ. Với những hoạt động sôi nổi từ thời sinh viên, sớm giác ngộ cách mạng, bà được giao làm Báo Ánh Sáng rồi làm tại Nhà xuất bản Tân văn hóa…
Khi đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bội Lan được điều động ra Bắc. Năm 1947, Báo Cứu Quốc ở Trung ương mở chi nhánh về địa phương tại các khu, liên khu. Nhà báo Bội Lan được điều về Liên khu V và trở thành đặc phái viên ở khu V của báo Cứu Quốc. Giấy chứng nhận do Cơ quan Tổng bộ Việt Minh - Chi cục Khu IV cấp cho bà ngày 27 tháng Giêng năm 1948 là sự khẳng định con đường làm báo chuyên nghiệp của bà, đồng thời mang đầy trọng trách mà Tổng bộ Việt Minh giao cho bà. Đáng chú ý là nội dung: "Yêu cầu đồng bào và các cơ quan giúp đỡ cô Bội Lan làm tròn nhiệm vụ".
Với giấy chứng nhận này, bà đã vượt qua nhiều khó khăn, trở ngại để đến nhiều nơi xa xôi, nguy hiểm để tác nghiệp, hoàn thành nhiệm vụ cao cả của một nhà báo cách mạng. Từ đây, qua nhiều vai trò, trọng trách ở cả trong và ngoài nước, bà Bội Lan đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp báo chí Cách mạng, là một nhà báo son sắt với nghề cho đến những ngày cuối đời. Giấy chứng nhận này sau đó được bà trao tặng nhà báo Dương Phước Thu, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế. Để tôn vinh một nữ nhà báo cách mạng, năm 2016, ông Thu đã tặng lại Bảo tàng Báo chí Việt Nam kỷ vật này.

Thẻ tác nghiệp của nhà báo Dương Thị Duyên, năm 1969
* Khi thua trên chiến trường quân sự, đế quốc Mỹ chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Trong phái đoàn đàm phán của ta, có duy nhất một nữ nhà báo là bà Dương Thị Duyên, Trưởng ban đầu tiên của Ban Biên tập tin thế giới tại Việt Nam Thông tấn xã. Sự có mặt của bà trong phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có lẽ đã gây ngạc nhiên cho các bên. Ngoài việc thông thạo tiếng Pháp, nữ nhà báo này còn có nhiều kiến thức, kinh nghiệm, sự linh hoạt trong ứng biến khi đưa tin về tình hình chiến sự không tiếng súng lúc bấy giờ. Công việc của một nhà báo lúc đó ngoài tác nghiệp trong các cuộc đàm phán chính thức, bên lề còn thực hiện các nhiệm vụ như tham gia diễn thuyết về Việt Nam tại các cuộc hội thảo, mít-tinh do Việt kiều, nhân dân Pháp tổ chức tại các thành phố lớn của Pháp hoặc ở các nước lân cận để tranh thủ tiếng nói ủng hộ Việt Nam.
Thẻ tác nghiệp được cấp ngày 9 tháng 1 năm 1969 đã khẳng định sự có mặt của một nữ nhà báo tại cuộc đấu tranh ngoại giao được đánh giá là dài nhất, khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao nước nhà ở thế kỷ XX. Nhà báo Dương Thị Duyên đã thể hiện trí tuệ, bản lĩnh của một chiến sỹ thông tin, góp phần vào thành công của Hội nghị Paris trên cả hai lĩnh vực đối ngoại nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Bài viết của nữ học viên Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang bước vào giai đoạn cam go và ác liệt. Để chuẩn bị bổ sung lực lượng phục vụ cho cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lệnh cho Tổng bộ Việt Minh, giao cho Báo Cứu Quốc chịu trách nhiệm đứng ra tổ chức trường đào tạo báo chí đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 4/4/1949, Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng chính thức được khai giảng tại xóm Bờ Rạ, xã Tân Thái, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Lớp học đón 42 học viên tham gia, trong đó có 3 học viên nữ là Lý Thị Trung, Phương Lâm (Báo Phụ nữ Cứu Quốc Liên khu X), Phạm Thị Mai Cương (Báo Lao động). Sau 3 tháng, lớp học kết thúc, bế giảng ngày 6/7/1949. Những nhà báo trở về các đơn vị báo chí công tác phục vụ cách mạng. Tuy nhiên, có một nhà báo đã không thể thực hiện khát vọng làm nghề của mình, đó là nhà báo Đoàn Phương Lâm (tên thường gọi là Phương Lâm), một người con xứ Lạng (Hữu Lũng, Lạng Sơn). Chị là một trong số những học viên xuất sắc đạt danh hiệu "viết văn có triển vọng" nhưng bom đạn, chiến tranh đã trút lên mảnh đất chiến khu và chị đã bị vùi trong lòng đất từ đó.

Trích bài viết của nhà báo Phương Lâm trên báo Cứu Quốc số 1344, ra ngày 12/9/1949 Ảnh: Bảo tàng Báo chí Việt Nam
Bài viết đầu tiên của chị được đăng trên báo Cứu Quốc số 1344, ra ngày 12/9/1949, với tiêu đề: Thư Phụ nữ. Bài viết được viết từ giảng đường, ngày 20/6/1949, là những dòng tâm sự của nhà báo Phương Lâm với người bạn có tên là Yến về sự may mắn được tham gia lớp học viết báo, đồng thời bày tỏ sự tiếc nuối khi bạn không kịp có mặt tham gia lớp học này. Điều đáng buồn, đây là bài viết đầu tiên cũng là bài viết cuối cùng của nữ nhà báo triển vọng mà chúng ta được đọc hôm nay.
Những trang nhật ký chiến trường
Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ kéo dài, nhiều nhà báo miền Bắc được điều động vào chiến trường miền Nam. Trong những đoàn quân ra mặt trận, có nhiều nhà báo nữ. Họ mang trong mình những trăn trở chung - riêng và những cảm xúc đó được gửi gắm qua những trang nhật ký được viết dọc đường hành quân tác nghiệp.

Một khách tham quan xem các hiện vật tại Bảo tàng, trong đó có giấy chứng nhận được cấp cho nhà báo Bội Lan tác nghiệp năm 1948
Một trong những cuốn nhật ký đó là của nhà báo Lệ Thu. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt (1964 - 1972), Lệ Thu là phóng viên, biên tập viên của Đài Tiếng nói Việt Nam. Vào những năm cuối cuộc chiến, chị được điều động sang làm phóng viên, biên tập viên của Đài Phát thanh Giải phóng (1973-1975). Mùa thu năm 1973, chị tác nghiệp tại chiến trường Nam Trung bộ, địa bàn chủ yếu ở Bình Định.
Xa gia đình, nhớ người thân, ngoài những lúc tác nghiệp, chị dành thời gian viết nhật ký. Cuốn nhật ký dày hàng trăm trang chi chít chữ được chị bắt đầu viết những trang đầu, và mỗi ngày được bồi thêm các sự kiện, sự việc diễn ra xung quanh để cảm xúc cho nữ nhà báo trẻ phải viết lên, có những trang đầy ắp niềm vui khi quân và dân ta thắng trận, có những dòng chữ nặng trĩu nỗi buồn khi chứng kiến đồng đội của mình hy sinh vì bom đạn kẻ thù, và cả những trang viết đầy sự trân trọng của chị với những người dân bình dị mà phi thường trong kháng chiến mà chị có dịp gặp, phỏng vấn, viết bài. Đó là những bà mế miền Trung làm liên lạc chỉ đường giúp chiến sỹ, hay cô nữ sinh trường Hoài Nhơn II quyết đi theo cách mạng… Nhưng có lẽ, những trang viết da diết nhất của chị vẫn là những trang viết dành cho con mình. Chính tình cảm với con, mà chị vào Nam chiến đấu, như lời bài thơ "Viết cho con" mà chị ghi lại trong nhật ký ngày 20/9/1973, là "không muốn con lớn lên con phải làm nô lệ/ nên bây giờ mẹ phải ra đi… khi Tổ quốc gọi tên từng thế hệ/ trong vinh quang con không phải cúi đầu".

Khách tham quan Bảo tàng Báo chí Việt Nam - Ảnh: Trường Hùng
Là một nhà báo, chấp hành mệnh lệnh, đi vào nơi gian khổ làm nhiệm vụ, không biết có ngày về hay không nhưng trên tất cả, chị là một người mẹ. Chẳng phút nào chị ngơi nhớ về con. Cả cuốn nhật ký, cứ vài trang chị lại nhắc đến đứa con nhỏ của mình"… Một phút lòng tôi yếu đuối, tôi khóc và nghĩ rằng rất có thể tôi sẽ hy sinh trong chuyến đi phía trước này. Trong đời hình như chưa bao giờ mình sợ chết. Nhưng giờ này tôi bỗng nghĩ đến con, bởi nếu tôi chết thì con tôi sẽ ra sao? Chắc hẳn là nó sẽ cô vùng cực khổ. Ôi con trai của má!... Phải chi con đã lớn hơn một chút cho má đỡ đau lòng, bớt xót xa, ân hận".
Nhật ký chiến trường của một nhà báo là những ghi chép về các sự kiện xảy ra quanh mình, về những khoảnh khắc đời thường, chân dung con người thời chiến mà người viết được gặp. Những trang nhật ký của nhà báo Lệ Thu ăm ắp sự kiện, dày đặc thông tin và đầy cảm xúc đã phần nào cho chúng ta thấy sự khốc liệt của chiến tranh và cả tinh thần can trường, quả cảm của các nhà báo chiến sỹ trên mặt trận.