Nhận diện 6 phong tục tập quán cản trở mục tiêu bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số

Trong nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số (DTTS) ở Việt Nam, một số phong tục, tập quán trong tình yêu, hôn nhân, văn hóa/tín ngưỡng hay phân công lao động, chăm sóc sức khỏe… đã và đang là rào cản khiến phụ nữ và trẻ em gái trong vòng luẩn quẩn của sự phụ thuộc, hạn chế tiếng nói và cơ hội vươn lên. Nhận diện và thay đổi những tập quán này là bước then chốt để nâng cao quyền và vai trò của phụ nữ.
Tục "bắt vợ" - quyền quyết định hôn nhân thuộc về nam giới
Ở một số cộng đồng người DTTS tại Lào Cai, Sơn La, Lai Châu…, tập tục "bắt vợ", "kéo vợ"/"kéo dâu" là một phần trong phong tục cưới hỏi truyền thống, diễn ra vào mùa xuân, các dịp chợ tình hoặc lễ hội... Khi đôi trai gái đã đồng thuận, chàng trai thường bí mật cùng bạn bè "kéo" cô về nhà mình, cô gái giả vờ phản kháng nhưng cuối cùng được xem như chấp nhận. Vốn dĩ, tục này từng giúp đôi trai gái yêu nhau thực hiện hành vi "giả bắt" để vượt qua rào cản sính lễ hoặc thể hiện tự do tình yêu, không chịu sự áp đặt của gia đình.
Tuy nhiên, hiện nay tập tục đang gây nhiều tranh cãi, đặc biệt là dưới góc nhìn về vi phạm quyền con người và bất bình đẳng giới khi nó bị biến tướng thành hành vi cưỡng ép, thậm chí có thể vi phạm pháp luật khi không có sự đồng ý của cô gái hoặc khi cô gái chưa đủ tuổi.
Việc cưỡng ép bắt vợ thể hiện quyền quyết định hôn nhân nghiêng hẳn về phía nam giới và gia đình nhà trai. Họ nắm toàn bộ quá trình: từ chọn đối tượng, tổ chức "bắt", thương lượng sau khi bắt. Phía cô gái và gia đình hầu như không có tiếng nói, hoặc nếu có cũng khó thực thi trước sức ép tập thể. Hệ quả là quyền tự quyết hôn nhân - vốn được pháp luật bảo vệ - bị xâm phạm nghiêm trọng.

Tập tục "kéo vợ" đang gây nhiều tranh cãi đặc biệt là dưới góc nhìn về quyền con người và bình đẳng giới. Ảnh: Phong Thu
Quyền nói "không" của phụ nữ bị phủ nhận, nguyên tắc hôn nhân tự nguyện bị phá vỡ. Hôn nhân khởi đầu trong thế bị động cũng tạo nên bất bình đẳng trong gia đình, từ quyết định kinh tế, con cái đến nơi ở thường do chồng hoặc nhà chồng chi phối.
Ngoài ra, tục "bắt vợ" còn tiềm ẩn nguy cơ bạo lực gia đình khi hôn nhân thiếu đồng thuận từ đầu, mâu thuẫn, bạo lực thể chất và tinh thần dễ phát sinh; hoặc thông qua tục "bắt vợ" phụ nữ, trẻ em gái cũng dễ trở thành mục tiêu cho những đối tượng lừa, bắt cóc, mua bán người qua biên giới…
Quan niệm "của cải theo chồng" là mất phúc
Hiện ở nhiều cộng đồng DTTS theo chế độ phụ hệ khá rõ nét như Mông, Dao, Thái, Hà Nhì, Tày… tập quán và luật tục vẫn giữ vai trò chi phối mạnh mẽ hơn luật pháp nhà nước. Con trai được xem là "người nối dõi", giữ hương hỏa và trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ khi về già. Vì vậy, đất đai, ruộng vườn, trâu bò/phương tiện sản xuất - những tài sản quan trọng gắn với sinh kế lâu dài của đồng bào vùng cao - mặc nhiên chỉ được trao lại cho con trai, đặc biệt là con trai trưởng, đất đai cũng thường được gắn với vai trò "chủ hộ" của nam giới.
Khi tập quán lâu đời coi nam giới là trụ cột sản xuất và là "chủ hộ" hợp pháp trước cộng đồng. Mọi giao dịch liên quan đến ruộng nương, vay vốn, thế chấp ngân hàng… thường đứng tên đàn ông. Điều này củng cố niềm tin rằng đất đai phải gắn liền với quyền quản lý của nam giới.
Còn với phụ nữ, khi lấy chồng có thể sẽ nhận "của hồi môn" (quần áo, bạc vòng, đôi trâu, ít tiền…) những thứ không đủ tạo nền tảng kinh tế độc lập. Cha mẹ cho rằng đã "trọn tình" với con gái, còn tài sản lâu dài thì giữ lại cho con trai để tiếp tục canh tác, duy trì sinh kế cho dòng họ; hoặc khi con gái đi lấy chồng mà cho con gái đất đai nghĩa là đã bị "thất thoát" tài sản ra ngoài dòng họ hoặc mất phúc vì "của cải theo chồng"…
Điều này vô hình trung hợp thức hóa việc loại phụ nữ ra khỏi quyền thừa kế đất đai, chỉ là "lao động phụ" trên chính mảnh đất của gia đình. Họ bị phụ thuộc nhiều vào chồng hoặc gia đình chồng, làm giảm vị thế, tiếng nói của mình trong gia đình, cộng đồng và khi hôn nhân đổ vỡ hoặc rơi vào cảnh khó khăn, góa bụa, người phụ nữ DTTS dễ trở thành "trắng tay sau hôn nhân" và càng gia tăng nguy cơ dễ bị tổn thương…
Phong tục thờ cúng có tính chất "loại trừ phụ nữ"
Một số tập quán thờ cúng của đồng bào hiện vẫn còn tính chất phân biệt giới khá rõ nét. Đồng bào còn giữ quan niệm phụ nữ không được chạm hoặc đứng gần bàn thờ, không thể làm chủ lễ. Các nghi thức cúng lễ truyền thế hệ trong gia đình như giỗ chạp, lễ chuyển giao mộ phần, tế họ, cúng nhà, cúng ma… hầu hết do nam giới thực hiện, từ con trai trưởng đến thầy cúng, thầy mo.
Còn ở ngoài cộng đồng, ví dụ, một số lễ hội, lễ cúng bản, cúng mường (xên bản, xên mường) của người Thái thường do già làng hoặc thầy mo nam đảm trách. Với người Chăm (Bà-la-môn giáo), chức sắc tôn giáo (Pô Adhia, thầy cả) đều là nam giới, phụ trách toàn bộ nghi lễ chính…

Trong lễ cấp sắc của Dao, chỉ đàn ông mới được làm lễ. Nguồn: TNO
Cơ chế này vô hình trung đã "biểu tượng hóa quyền lực nam giới" trong đời sống tinh thần, trở thành công cụ duy trì trật tự trọng nam với sự ủng hộ của "luật mềm" cộng đồng. Trong gia đình, ai được cử hành nghi lễ thường được coi là chủ hộ, đại diện dòng tộc, nắm quyền quyết định liên quan đến đất đai, tài sản.
Từ quyền uy tinh thần, nam giới dễ dàng chuyển hóa thành quyền lực xã hội, tiếng nói của họ có sức nặng hơn trong gia đình và cộng đồng. Những cấm kỵ xoay quanh thân thể phụ nữ (ví dụ như kiêng tiếp xúc khi có kinh nguyệt, kiêng khi sinh nở…) cũng biến cơ thể phụ nữ thành "ô uế" trong không gian công cộng, vi phạm quyền cá nhân và giới hạn sự hiện diện của họ trong đời sống cộng đồng.
Việc liên tục bị đặt ở vị trí "thứ yếu" trong các hành vi thiêng liêng khi thực hành văn hóa/tín ngưỡng khiến phụ nữ dần tin rằng giá trị bản thân thấp kém hơn, ít dám khẳng định hay đấu tranh cho quyền lợi của mình. Hệ quả lâu dài là tiến trình bình đẳng giới ở vùng đồng bào DTTS tiếp tục bị cản trở, khi phụ nữ thiếu cơ hội tham gia và thiếu tiếng nói trong những không gian quan trọng nhất của đời sống cộng đồng.
Rào cản từ tảo hôn và hôn nhân cận huyết
Trước hết, tảo hôn là "chiếc khóa" đóng lại cánh cửa học tập và phát triển của phụ nữ. Ở nhiều cộng đồng như Mông, Xinh Mun, La Ha, Gia Rai, Chăm, Mnông…, việc kết hôn sớm thậm chí được coi tập tục là bình thường. Những bé gái mới 14–15 tuổi, thậm chí 11 - 12 tuổi, đã có thể bị gả chồng. Hệ quả là các em buộc phải bỏ học, mất cơ hội nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp.
Kết quả điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội (KT-XH) của 53 DTTS năm 2024 (Bộ Dân tộc và Tôn giáo, 2025): Với nhóm phụ nữ DTTS độ tuổi 15-49, hiện mới chỉ có 47,5% có nhu cầu tránh thai, đang sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại; chỉ có 13,8% sinh con tại cơ sở y tế trong lần sinh gần nhất; vẫn còn 1,03% sinh con tại nhà (trong đó có những nhóm sinh tại nhà còn cao: Mảng 6,96%, Mông 5,25%, Xơ Đăng 4,67%, La Chí 3,7%...).
Trong khi đó, nam giới thường tiếp tục học hoặc làm kinh tế, còn phụ nữ gắn chặt với vai trò nội trợ và chăm con. Khoảng cách học vấn và cơ hội ngày càng giãn rộng, khiến phụ nữ phụ thuộc vào chồng cả về kinh tế lẫn quyền quyết định.
Hôn nhân cận huyết vẫn còn được nhiều cộng đồng thực thi theo truyền thống cũng đang làm gia tăng nguy cơ mang thai và sinh con khi cơ thể chưa hoàn thiện, dễ dẫn đến biến chứng sản khoa, tử vong mẹ và trẻ sơ sinh. Phụ nữ kết hôn sớm thường sinh nhiều con, thiếu kiến thức kế hoạch hóa gia đình, từ đó gánh thêm lao động và khó tham gia hoạt động kinh tế - xã hội. Chất lượng cuộc sống thấp, vòng nghèo đói và bất bình đẳng lại tiếp tục siết chặt.
Về lâu dài, khi tảo hôn trở thành thông lệ, vai trò phụ nữ bị mặc định quanh quẩn "sinh con - nội trợ". Tiếng nói của họ trong cộng đồng bị xem nhẹ, nhu cầu và quyền lợi không được phản ánh vào chính sách. Trẻ em sinh ra trong các cuộc hôn nhân này cũng ít được đầu tư học hành. Con gái dễ lặp lại vòng tảo hôn như mẹ; con trai lớn lên trong định kiến giới, giữ quyền lực tuyệt đối trong gia đình. Như vậy, bất bình đẳng giới đã được "lập trình" ngay từ thế hệ sau, khiến bình đẳng thực chất càng khó đạt được.
"Đóng khung" phụ nữ ở nương rẫy
Ở nhiều cộng đồng DTTS, phụ nữ vẫn bị gắn chặt với lao động nông nghiệp, nương rẫy, chăn nuôi tự cung tự cấp. Cách "đóng khung" này không chỉ phản ánh vai trò truyền thống mà còn là rào cản lớn đối với mục tiêu bình đẳng giới.
Hiện, phụ nữ DTTS phải dành phần lớn thời gian cho canh tác, thu hoạch, chăn nuôi nên khó có điều kiện học tập, nâng cao năng lực hay tham gia đào tạo nghề. Trong khi đó, nam giới có thể di cư lao động xa, tiếp cận việc làm thu nhập cao và mở rộng tầm nhìn xã hội. Khoảng cách về tri thức và cơ hội ngày càng giãn rộng, làm gia tăng bất bình đẳng giới.
Khi phụ nữ bị mặc định "chỉ biết làm nương", tiếng nói của họ trong gia đình, cộng đồng hay chính trị đều bị xem nhẹ. Hình ảnh ấy dần trở thành khuôn mẫu văn hóa, củng cố định kiến giới, hạn chế sự tự tin và vai trò lãnh đạo của phụ nữ DTTS; làm hạn chế các cơ hội tham gia các mô hình kinh tế mới như khởi sự kinh doanh, du lịch cộng đồng, kinh tế số. Ngoài ra, quan trọng hơn, bất bình đẳng này còn được tái thiết lập qua thế hệ.
Khi trẻ em gái chứng kiến mẹ, chị bị bó buộc quanh nương rẫy, việc bỏ học sớm để phụ giúp gia đình trở thành điều "tất yếu". Vòng luẩn quẩn "ít học - lao động nặng nhọc - thu nhập thấp - bất bình đẳng" tiếp tục lặp lại, cản trở sự phát triển của phụ nữ và cả cộng đồng.
Những tập tục không còn phù hợp trong chăm sóc sức khoẻ
Ở nhiều vùng đồng bào, việc chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe phụ nữ và trẻ em vẫn còn đang chịu ảnh hưởng sâu đậm của các quan niệm, tập tục truyền thống đã tồn tại lâu đời. Một số tập tục từng xuất phát từ điều kiện sống khắc nghiệt, thiếu dịch vụ y tế, nhưng ngày nay lại trở thành rào cản tiêu cực đối với mục tiêu thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao chất lượng cuộc sống, sức khỏe.
Các hoạt động tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm về phát huy tập tục văn hóa tốt đẹp các DTTS được Hội LHPN Việt Nam tổ chức thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức, giúp cán bộ Hội các cấp, các ngành nhận diện được những tập tục không còn phù hợp trong tuyên truyền, vận động góp phần thúc đẩy bình đẳng giới vùng DTTS, miền núi.
Trước hết, về sinh đẻ và chăm sóc sản phụ, nhiều nơi vẫn duy trì tập tục sinh con tại nhà, nhờ bà đỡ truyền thống hoặc không, không đến cơ sở y tế. Hệ quả là phụ nữ dễ gặp biến chứng nguy hiểm khi sinh nở nhưng không được can thiệp kịp thời.
Một số dân tộc như Mông, Dao vẫn có quan niệm kiêng cữ khắt khe sau sinh: sản phụ phải nằm một mình trong góc nhà, ăn uống kiêng khem (chỉ ăn cơm trắng, muối, không ăn rau, không uống nước nhiều). Điều này ảnh hưởng đến sức khỏe, dinh dưỡng của cả mẹ và trẻ sơ sinh. Khi phụ nữ không được tiếp cận dịch vụ y tế an toàn, họ bị đặt vào vị thế yếu thế hơn nam giới – những người ít phải chịu rủi ro về sinh sản. Điều này tái tạo sự bất bình đẳng giới về sức khỏe và tuổi thọ.
Thứ hai, còn định kiến giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản. Việc sử dụng các biện pháp tránh thai phần lớn đặt gánh nặng lên phụ nữ (đặt vòng, tiêm thuốc, uống thuốc…), trong khi nam giới ít tham gia và còn cho đó là "việc của phụ nữ". Ở một số cộng đồng, phụ nữ không có quyền quyết định về việc sinh con/số lượng con hay kế hoạch hóa gia đình. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền tự quyết cơ thể của phụ nữ mà còn kéo dài vòng nghèo đói vì gia đình đông con.
Thứ ba là những quan niệm cũ về bệnh tật, chữa bệnh. Một số đồng bào vẫn tin vào thầy mo, thầy cúng, thầy tào… thay vì đến trạm y tế. Khi trẻ em hoặc phụ nữ bị ốm, gia đình thường cúng trước, chỉ đến bệnh viện khi bệnh đã nặng. Có nơi vẫn cho rằng bệnh tật là "do ma quỷ" hoặc "trời phạt", khiến người bệnh, đặc biệt là phụ nữ, bị mặc cảm, không được điều trị đúng cách, dễ bị bỏ rơi trong quá trình chăm sóc sức khỏe, nhất là khi kinh tế gia đình hạn hẹp và ưu tiên chữa bệnh cho nam giới hoặc người lao động chính.
Nhìn chung, những phong tục, tập quán cũ không còn phù hợp không chỉ kìm hãm sự phát triển của phụ nữ DTTS mà còn là rào cản cho tiến bộ xã hội. Nhận diện các phong tục, tập quán cũ cản trở bình đẳng giới ở vùng DTTS là bước đầu tiên nhưng vô cùng quan trọng để thay đổi nhận thức, hành vi trong cộng đồng và trao cơ hội công bằng, tạo nền tảng để bình đẳng giới trở thành giá trị sống thiết thực trong đời sống văn hóa và xã hội của đồng bào DTTS.
Chiến lược truyền thông Bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em DTTS giai đoạn 2023 - 2025, định hướng đến 2030 của Hội LHPN Việt Nam đặt chỉ tiêu đến hết 2025, khoảng 40 ngàn lãnh đạo và cán bộ của các sở ban ngành, cơ quan các cấp tham gia Chương trình Mục tiêu Quốc gia vùng DTTS có khả năng nhận biết và xác định các vấn đề cấp thiết của phụ nữ và trẻ em trong các lĩnh vực; nhận diện và đưa ra các giải pháp cụ thể cho các tập tục có hại cho sự phát triển của phụ nữ và trẻ em ở vùng DTTS; Và ít nhất 90% nam giới, phụ nữ và trẻ em tham gia các tổ truyền thông cộng đồng, mô hình sinh kế, địa chỉ tin cậy và CLB Thủ lĩnh của sự thay đổi trong Dự án 8 được nâng cao nhận thức, nhận diện được tác hại của các tập tục lạc hậu đối với sự phát triển của phụ nữ, trẻ em và cả cộng đồng.