Xem thêm thông tin của Báo PNVN trên
Phụ nữ Việt Nam
MỚI NHẤT ĐỘC QUYỀN MULTIMEDIA CHUYÊN ĐỀ
24/12/2025 - 20:34 (GMT+7)

Những thách thức trong phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới tại Việt Nam

Trường Lê (thực hiện)
Những thách thức trong phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới tại Việt Nam

Bạo lực trên cơ sở giới là một thách thức xã hội dai dẳng tại Việt Nam, không chỉ tồn tại trong không gian gia đình mà còn lan sang môi trường số với nhiều hình thức tinh vi. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, công tác phòng, chống bạo lực giới đặt ra nhiều yêu cầu mới về pháp lý, thực thi và thay đổi nhận thức xã hội.

Báo Phụ nữ Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Thị Huyền Nhung, Viện Nghiên cứu Phụ nữ, Học viện Phụ nữ Việt Nam, để nhìn rõ hơn những thách thức trong phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới tại Việt Nam.

PV: Bà đánh giá gì về mức độ và hình thức bạo lực trên cơ sở giới tại Việt Nam hiện nay? Những điểm tương đồng và khác biệt lớn nhất so với thế giới?

Tiến sĩ Nguyễn Thị Huyền Nhung: Đánh giá về mức độ bạo lực trên cơ sở giới, Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có tỷ lệ phổ biến bạo lực do bạn tình thân mật rất cao. Gần 63% phụ nữ từng kết hôn trải qua ít nhất một hình thức bạo lực (thể chất, tình dục, tinh thần, kinh tế) do chồng/bạn tình gây ra trong đời, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn cầu (khoảng 30-35% phụ nữ từng bị bạo lực thể chất và/hoặc tình dục do bạn tình).

Còn về hình thức, Việt Nam phản ánh xu hướng toàn cầu khi bạo lực tinh thần/tâm lý (47.0%) và hành vi kiểm soát là phổ biến nhất. Điều này khẳng định, bạo lực trên cơ sở giới (BLTCSG) có bản chất là sự kiểm soát quyền lực hơn là chỉ bạo lực thể chất đơn thuần. Thêm vào đó, xu hướng gia tăng các hình thức bạo lực mới như bạo lực trên không gian mạng cũng là thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, tương tự như các quốc gia có tốc độ số hóa cao khác.

Những điểm tương đồng lớn nhất, theo tôi, là tính phổ quát của bạo lực do bạn tình thân mật và bạo lực phi thể chất. Thủ phạm phổ biến nhất của BLTCSG tại Việt Nam là chồng/bạn tình. Hơn nữa, sự thống trị của các hình thức bạo lực tâm lý, kinh tế và kiểm soát hành vi cho thấy, nguyên nhân gốc rễ là bất bình đẳng giới và nhu cầu duy trì quyền lực nam giới.

Còn khác biệt lớn nhất đó là sự tác động của giá trị văn hóa truyền thống và định kiến gia trưởng đối với tính "ẩn mình" của bạo lực. Điều này đã dẫn đến sự bình thường hóa và coi là "chuyện riêng" của bạo lực, khiến một tỷ lệ rất lớn nạn nhân không tìm kiếm sự giúp đỡ chính thức. Sự thờ ơ của cộng đồng và sự bao che bạo lực trong phạm vi gia đình ở Việt Nam là thách thức lớn hơn so với nhiều quốc gia đã có bước tiến dài trong việc xã hội hóa trách nhiệm phòng chống BLTCSG.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Huyền Nhung

Tiến sĩ Nguyễn Thị Huyền Nhung

PV: Nhiều quốc gia đang đối mặt với sự gia tăng các hình thức bạo lực giới tinh vi hơn, đặc biệt là bạo lực trên không gian mạng. Theo bà, Việt Nam đang đứng trước những thách thức gì trong việc nhận diện, xử lý và ngăn chặn các hình thức bạo lực mới này?

Tiến sĩ Nguyễn Thị Huyền Nhung: Việt Nam đang đối diện với khó khăn trong việc định nghĩa và lượng hóa các hình thức bạo lực mạng một cách đầy đủ. Các hành vi như quấy rối trực tuyến, deepfake, phát tán hình ảnh nhạy cảm phi đồng thuận, hay doxing thường mơ hồ về mặt pháp lý, khiến cơ quan chức năng khó phân biệt giữa hành vi phạm tội với tự do ngôn luận hay tranh chấp dân sự. Sự thiếu hụt khung pháp lý chuyên biệt làm giảm tính răn đe. Thách thức này càng trầm trọng hơn do tốc độ thay đổi của công nghệ luôn vượt trước tốc độ điều chỉnh luật pháp, dẫn đến sự thiếu hụt công cụ pháp lý linh hoạt để xử lý kịp thời các thủ đoạn bạo lực tinh vi.

Hầu hết các nền tảng mạng xã hội và máy chủ lưu trữ dữ liệu nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam, gây cản trở nghiêm trọng cho quá trình điều tra, thu thập chứng cứ điện tử và truy tố thủ phạm. Việc phối hợp và yêu cầu gỡ bỏ nội dung bạo lực từ các tập đoàn công nghệ lớn đòi hỏi quy trình phức tạp, tốn thời gian, khiến nội dung độc hại có thể lan truyền nhanh chóng và gây tổn hại không thể phục hồi cho nạn nhân trước khi được xử lý.

Và mặc dù BLTCSG trên mạng là vấn đề công khai nhưng nạn nhân Việt Nam vẫn bị cản trở bởi định kiến văn hóa và tâm lý e ngại. Văn hóa đổ lỗi cho nạn nhân tồn tại mạnh mẽ, khiến nhiều phụ nữ và trẻ em gái sợ bị kỳ thị, phán xét hoặc bị buộc tội vì đã "làm lộ" thông tin cá nhân. Sự thiếu vắng một cơ chế báo cáo và hỗ trợ tâm lý chuyên biệt cho nạn nhân bạo lực mạng cũng là một trở ngại.

PV: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số mạnh mẽ, đâu là những hạn chế trong chính sách, pháp luật và thực thi tại Việt Nam khiến công tác phòng, chống bạo lực giới chưa đạt hiệu quả như mong muốn?

Tiến sĩ Nguyễn Thị Huyền Nhung: Hạn chế lớn nhất là pháp luật chưa theo kịp tốc độ phát triển của các hình thức bạo lực mới và thiếu một tầm nhìn toàn diện về BLTCSG. Mặc dù Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2022) đã được cải tiến, phạm vi điều chỉnh vẫn tập trung chủ yếu vào gia đình, bỏ sót hoặc xử lý chưa triệt để các hình thức bạo lực ngoài gia đình.

Khoảng trống pháp lý nghiêm trọng nhất là thiếu các quy định chuyên biệt và rõ ràng. Các hành vi tinh vi như phát tán hình ảnh nhạy cảm phi đồng thuận, quấy rối có tổ chức hay sử dụng công nghệ deepfake để làm tổn hại danh dự phụ nữ chưa được định nghĩa chính xác và quy vào tội danh cụ thể, làm giảm tính răn đe và gây khó khăn cho việc truy tố hình sự.

Hạn chế trong năng lực thực thi và tư pháp ở chỗ, cán bộ cấp xã/phường - những người tiếp nhận vụ việc đầu tiên - thường thiếu kiến thức chuyên môn về nhạy cảm giới, kỹ năng tham vấn và xử lý bằng chứng số. Nhiều vụ việc vẫn bị xử lý theo hướng hòa giải hoặc bị xem nhẹ là "chuyện riêng gia đình", dẫn đến tình trạng BLTCSG bị bỏ qua và tái diễn.

Mạng lưới dịch vụ hỗ trợ nạn nhân tại Việt Nam vẫn còn phân tán, thiếu chuyên nghiệp và không đồng đều. Các cơ sở hỗ trợ chuyên biệt như nhà tạm lánh, trung tâm công tác xã hội có số lượng hạn chế và thường tập trung ở các thành phố lớn, khiến phụ nữ và trẻ em ở khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa khó tiếp cận.

PV: Theo bà, đâu là giải pháp mà nước ta cần ưu tiên triển khai trong giai đoạn tới để công tác phòng, chống BLTCSG vừa phù hợp với đặc thù văn hóa, vừa đáp ứng chuẩn mực quốc tế?

Tiến sĩ Nguyễn Thị Huyền Nhung: Việt Nam cần chuyển đổi tư duy từ "chuyện riêng gia đình" sang trách nhiệm pháp lý và xã hội. Về mặt pháp lý, ưu tiên là pháp điển hóa và hình sự hóa các hành vi bạo lực mới. Cụ thể, cần ban hành các quy định chuyên biệt để định nghĩa rõ ràng và xử lý nghiêm các hành vi như phát tán hình ảnh nhạy cảm phi đồng thuận, deepfake hay quấy rối trực tuyến…

Về thực thi và hỗ trợ, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hiệu quả của Mô hình "Một điểm dừng", cung cấp dịch vụ tổng hợp (y tế, tâm lý, pháp lý, tạm lánh) tại một cơ sở, đảm bảo tính liên ngành và lấy nạn nhân làm trung tâm. Điều này giúp tối giản hóa quy trình tìm kiếm sự giúp đỡ cho nạn nhân.

Để công tác phòng, chống BLTCSG đạt hiệu quả, Việt Nam cần ưu tiên 3 giải pháp trọng tâm. Thứ nhất, chuyên biệt hóa công tác ứng phó với bạo lực trên không gian mạng. Điều này đòi hỏi phải khẩn trương xây dựng khung pháp lý và thành lập các đơn vị hỗ trợ kỹ thuật, tâm lý chuyên trách có khả năng can thiệp nhanh chóng để gỡ bỏ nội dung bạo lực, bảo mật thông tin và cung cấp trị liệu tâm lý từ xa.

Thứ hai, nâng cao tính chuyên nghiệp của hệ thống thực thi cấp cơ sở. Cần chấm dứt triệt để việc hòa giải các vụ bạo lực nghiêm trọng. Thay vào đó, cần bắt buộc đào tạo chuyên sâu cho cán bộ tuyến đầu về kỹ năng xử lý bằng chứng số và quy trình can thiệp nhạy cảm giới, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát độc lập để đảm bảo mọi vụ việc được xử lý nghiêm minh theo chuẩn mực pháp lý.

Thứ ba, can thiệp văn hóa một cách hệ thống thông qua giáo dục và truyền thông tích cực, bằng cách lồng ghép nội dung về quan hệ bình đẳng và sự đồng thuận vào chương trình giáo dục, đồng thời thúc đẩy các chiến dịch truyền thông có sự tham gia của nam giới nhằm thay đổi tận gốc các định kiến gia trưởng.

Xin trân trọng cám ơn bà!

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận