Phát triển nông nghiệp xanh: Cần nguồn vốn khởi động đủ mạnh

Phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái. (Nguồn: TTXVN)
Nhiều ý kiến cho rằng trong quá trình chuyển đổi trồng trọt giảm phát thải, nếu không có khung chính sách và nguồn vốn khởi động đủ mạnh, sẽ khó đạt hiệu quả như kỳ vọng.
Chuyển đổi trồng trọt giảm phát thải là xu thế tất yếu và Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050” vừa được Bộ Nông nghiệp và Môi trường công bố cũng đã xác định con đường phát triển xanh, hữu cơ, bền vững. Song, nhiều ý kiến cho rằng để triển khai hiệu quả, Việt Nam cần phải đảm bảo được nguồn vốn đủ mạnh.
Lý do được chỉ ra là bởi nguồn lực thực hiện đề án sản xuất xanh ở trong nước, hiện nay mới chủ yếu dựa vào xã hội hóa. Dù đây là hướng đi lớn và lâu dài, nhưng nếu không có khung chính sách và nguồn vốn khởi động đủ mạnh, không chuẩn hóa ngay từ khâu tổ chức ban đầu, sẽ khó hình thành một chuỗi minh bạch và khó có thể giao dịch quốc tế.
Củng cố nguồn lực, xây dựng chuỗi giá trị
Tiến sỹ Cao Đức Phát - nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ Cộng đồng phòng tránh thiên tai, cho rằng để chuyển đổi trồng trọt giảm phát thải hiệu quả, bền vững, cần bổ sung 2 nhóm giải pháp lớn. Trước tiên là phải điều chỉnh cơ sở hạ tầng nông nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu mới của sản xuất xanh, đặc biệt là hệ thống thủy lợi cho cây lúa.
“Theo đó, hệ thống thủy lợi phải được đầu tư đồng bộ, vì chỉ khi rút nước kịp thời mới có thể thực hiện được các kỹ thuật canh tác phát thải thấp,” ông Phát nhấn mạnh.
Tiếp theo là phải có kế hoạch huy động nguồn lực cho việc chuyển đổi trên phạm vi toàn quốc, bởi nếu chỉ trông chờ vào ngân sách thì khó có thể đi đường dài.
Ông Phát cũng nhấn mạnh trong 7 nhóm nhiệm vụ trọng tâm của dự thảo kế hoạch hành động triển khai đề án trên, chính sách vẫn là yếu tố then chốt. Do vậy, ông đề xuất cơ quan quản lý thống nhất quan điểm là coi nông dân và doanh nghiệp là hai chủ thể trung tâm - vừa là người thực hiện, vừa là người hưởng lợi.
“Khi thấy được lợi ích cụ thể và được hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, người dân, doanh nghiệp sẽ chủ động tham gia, đặc biệt trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Ngoài ra, các tổ chức xã hội, viện nghiên cứu, trường đại học và cả người tiêu dùng cũng cần được lồng ghép trong hệ sinh thái phát triển nông nghiệp xanh, bởi chuyển đổi không chỉ diễn ra trên đồng ruộng mà còn trong toàn chuỗi giá trị,” ông Phát nói.
Về cơ cấu sản xuất, ông Phát cho rằng hướng chính là chuyển từ cây phát thải cao sang cây phát thải thấp hoặc có khả năng hấp thụ carbon; tuy nhiên mọi sự chuyển đổi đều phải hướng đến mục tiêu lớn hơn là nâng cao thu nhập của người dân.
Dẫn tình hình thực tế, ông Phát cho biết diện tích đất nông nghiệp, nhất là đất lúa đang giảm nhanh, trong khi mỗi năm lao động nông nghiệp giảm khoảng 1 triệu người. Trong bối cảnh ấy, theo ông, con đường duy nhất để phát triển xanh là dựa vào khoa học công nghệ để tăng năng suất, tiết kiệm tài nguyên và giảm phát thải.
“Công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số phải trở thành trụ cột để nông nghiệp Việt Nam không chỉ xanh hơn mà còn cạnh tranh hơn,” ông Phát nói.
Ngoài ra, ông Phát cũng đặc biệt lưu ý đến hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định và cơ sở dữ liệu thống nhất (MRV). Theo ông, đây là yêu cầu cấp thiết, nên Việt Nam cần sớm xây dựng khung pháp lý để các viện, trường và cả khu vực tư nhân có thể tham gia, nhằm bảo đảm tính khoa học, minh bạch.
Cuối cùng là thị trường, ông Phát cho rằng đây là câu hỏi đầu tiên cần được khơi thông, bởi nếu chỉ dừng ở khâu kỹ thuật đầu vào mà chưa hình thành được thị trường cho nông sản carbon thấp hoặc tín chỉ carbon thì nỗ lực giảm phát thải sẽ khó bền.
Có chung quan điểm, Phó Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Trí Ngọc, Phó Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, cho rằng điểm cần làm rõ hơn là nguồn lực thực hiện đề án, bởi hiện nay mới chủ yếu dựa vào xã hội hóa. Nhưng nếu không có khung chính sách và nguồn vốn khởi động đủ mạnh, quá trình triển khai sẽ khó đạt hiệu quả như kỳ vọng.

Trồng trọt giảm phát thải. (Ảnh: Tuấn Anh)
Liên quan đến tham vọng tham gia thị trường carbon, ông Ngọc đề xuất xác định cụ thể cách thức tham gia, loại hàng hóa được mua bán và phương pháp đo lường tín chỉ carbon trong lĩnh vực trồng trọt.
“Nếu không chuẩn hóa ngay từ khâu tổ chức ban đầu, sẽ khó hình thành một chuỗi minh bạch, có thể giao dịch quốc tế,” ông Phát nhấn mạnh.
Khơi thông thị trường để sản phẩm xanh "cất cánh"
Theo Phó Giáo sư-Tiến sỹ Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, đề án trồng trọt giảm phát thải và đề án nâng cao sức khỏe đất được ban hành tháng 10/2024 chính là “xương sống” của ngành trồng trọt trong giai đoạn mới.
“Chỉ chưa đầy 1 tháng sau khi đề án trồng trọt giảm phát thải được ban hành, dự thảo kế hoạch hành động đã được xây dựng, cho thấy quyết tâm rất lớn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong triển khai định hướng phát triển nông nghiệp xanh, bền vững và phát thải thấp,” ông Doanh nhấn mạnh.
Tuy vậy, để đề án triển khai thực sự hiệu quả và bền vững, ưu tiên hàng đầu trong kế hoạch hành động là cần xây dựng và ban hành gói kỹ thuật để chuyển giao cho các địa phương, do Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật chủ trì. Theo ông Doanh, đây là nền tảng quan trọng giúp các tỉnh, thành có thể nhanh chóng triển khai thực tế trên đồng ruộng.
Vì vậy, trước mắt, gói kỹ thuật nên tập trung vào các nhóm cây trồng chủ lực, vừa giúp tạo tác động lớn, vừa thuận lợi trong việc nhân rộng; đồng thời kế thừa những kết quả đã được kiểm chứng trong các chương trình trước đây.
Ngoài ra, theo ông Doanh, một hướng đi cần được quan tâm nữa là mô hình nông lâm kết hợp, vốn đã chứng minh tính hiệu quả tại khu vực Tây Bắc. Theo ông Doanh, đây cũng là xu thế chung của thế giới trong nỗ lực giảm phát thải và bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp.
“Vì vậy, mô hình cần phải thiết kế sao cho khi xây dựng xong có thể chuyển đổi sản xuất ngay trên diện rộng. Mục tiêu đến năm 2050 là 100% cây trồng chủ lực của Việt Nam áp dụng biện pháp giảm phát thải,” ông Doanh nói.
Từ góc độ cơ quan quản lý, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung, nhấn mạnh Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050” không chỉ là một chương trình của bộ, mà là một phong trào hành động quốc gia; là lời cam kết của nông nghiệp Việt Nam trước thế giới về trách nhiệm trước biến đổi khí hậu, về con đường phát triển xanh, bền vững.
Vì thế, việc triển khai đồng bộ từ trung ương đến địa phương sẽ là nền tảng để ngành trồng trọt đạt mục tiêu giảm phát thải, tiến tới trung hòa carbon vào giữa thế kỷ.
Về định hướng cụ thể, ông Trung cho biết trong quá trình xây dựng đề án trên, nhiệm vụ xây dựng hệ thống đo đạc - giám sát trên cả nước đã được giao cho đơn vị đầu ngành, chủ trì là các viện nghiên cứu trực thuộc bộ. Sau khi có quy trình giám sát - đo đạc, sẽ triển khai mô hình trao đổi tín chỉ và kết nối tham gia thị trường carbon.
Chủ trương triển khai đề án là “Rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ sản phẩm, rõ quy mô địa bàn thực hiện.” Theo đó, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật - cơ quan chuyên môn chủ trì đề án sẽ phải cập nhật chế độ báo cáo chỉ đạo định hướng vào Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).
“Về cơ chế chính sách, bộ chỉ đạo Cục Biến đổi khí hậu, trước 2028 thí điểm trao đổi carbon nội địa, trên cơ sở đó tham gia trao đổi carbon quốc tế,” ông Trung nói và nêu quan điểm cần phải bán được, khơi thông được thị trường cho người dân.