Tháo gỡ 3 điểm nghẽn chuyển đổi số quốc gia
Phát huy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo như “động lực chính”, “chìa khóa” giúp đất nước bứt phá - Ảnh: VNU
Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, tháo gỡ các điểm nghẽn về cơ chế, dữ liệu, hạ tầng và nhân lực là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công Nghị quyết 57-NQ/TW, đưa khoa học công nghệ và chuyển đổi số trở thành động lực phát triển đất nước.
3 rào cản lớn
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường Đại học Công nghệ, ĐHQG Hà Nội khẳng định để đạt được mục tiêu Nghị quyết 57 đề ra, trước tiên phải tháo gỡ những điểm nghẽn cố hữu. Có 3 rào cản về việc chuyển giao kết quả khoa học công nghệ vào thực tiễn vẫn còn tồn tại ngay ở cả thành phố lớn.
Thứ nhất là tư duy đổi mới và quy định của các bộ ngành, dẫn đến quá trình xét duyệt, thẩm định cấp kinh phí cho các đề tài, nhiệm vụ khoa học công nghệ còn chậm trễ. Dù mong muốn đầu tư lớn nhưng việc giải ngân, thực hiện rất chậm. Đề tài đề xuất rồi phải thẩm định, phê duyệt rất lâu, cấp kinh phí không theo đúng tiến độ và vẫn theo quán tính cũ do các nghị định, quy chế chưa thay đổi. Vì vậy, dù thành phố có chính sách đầu tư, việc giải ngân vẫn phải theo quy định của Nhà nước.
Vấn đề thứ hai liên quan đến sở hữu trí tuệ. Thực tế, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhà khoa học và phòng thí nghiệm đã có sản phẩm, công nghệ sẵn sàng cho hoạt động khởi nghiệp. Tuy nhiên, việc xác định quyền sở hữu trí tuệ thuộc về ai - Nhà nước, trường đại học, viện nghiên cứu hay chính nhà khoa học - vẫn còn nhiều vướng mắc, trở thành rào cản lớn.

GS. TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội - Ảnh: VNU
Thứ ba, dù tiềm lực đến đâu, một địa phương vẫn khó có thể tự đáp ứng đầy đủ các phòng thí nghiệm đạt tầm cỡ quốc gia cùng hệ thống tiêu chuẩn, kỹ thuật cần thiết cho hoạt động thử nghiệm. Sự thiếu hụt này gây nhiều khó khăn trong quá trình triển khai và áp dụng thực tiễn, đòi hỏi sự hỗ trợ, điều phối từ Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các bộ, ngành Trung ương.
Nhận định về vấn đề cần ưu tiên khi hoàn thiện hạ tầng khoa học công nghệ hiện nay, GS Nguyễn Đình Đức cho rằng đó là ở các địa phương đều chưa đồng bộ về dữ liệu. Dữ liệu là vô cùng quan trọng để phát triển kinh tế số, chính phủ số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Hiện nay, mỗi sở ngành có một dữ liệu riêng, chưa đồng nhất.
Bên cạnh đó, nguồn dữ liệu của các địa phương cần được xây dựng trên nền tảng chuẩn mực kỹ thuật thống nhất. Khi triển khai ứng dụng trí tuệ nhân tạo và các công nghệ số khác, việc thiếu các chỉ tiêu, tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể sẽ gây nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy, dù một số địa phương đã đẩy mạnh số hóa, nhưng hệ thống chỉ tiêu kỹ thuật ở cấp quốc gia vẫn chưa được ban hành đầy đủ. Do đó, cần sớm xây dựng và ban hành bộ chỉ tiêu kỹ thuật thống nhất, làm cơ sở kết nối, liên thông dữ liệu giữa các địa phương và các ngành, bảo đảm tính đồng bộ, tránh tình trạng lệch pha, sai số và sai sót. "Để phát triển kinh tế số, đất nước cần kết nối dữ liệu địa phương với trung ương. Đây là 3 yếu tố Việt Nam phải đầu tư ở cả cấp địa phương và Trung ương để xây dựng nền kinh tế số, đáp ứng mục tiêu 45% kinh tế số vào năm 2045", GS Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh.
Đào tạo, thu hút nhân tài
Về cơ chế tài chính nhằm thúc đẩy sự gắn kết và hợp tác hiệu quả giữa nhà khoa học và nhà đầu tư, GS Đình Đức cho rằng, vấn đề đầu tư mạo hiểm và chấp nhận rủi ro đã được đề cập trong các văn bản quy định của Nhà nước, đồng thời được nhấn mạnh trong Nghị quyết 57. Theo đó, việc hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm, cơ chế đầu tư cho rủi ro, cũng như chính sách khuyến khích nhà khoa học, phòng thí nghiệm, nhóm nghiên cứu và trung tâm xuất sắc tham gia vào lĩnh vực công nghệ cao là hết sức cần thiết.
Bên cạnh đó, sự gắn kết và đồng hành của doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, giữ vai trò quan trọng. Chủ trương khuyến khích khối kinh tế tư nhân tham gia hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là ở các lĩnh vực mũi nhọn, là rất rõ ràng. Khối này có lợi thế về khả năng ra quyết định nhanh, đầu tư kịp thời và thuận lợi trong việc đưa sản phẩm vào ứng dụng thực tiễn, GS Đình Đức nhấn mạnh.

Bài toán nhân lực thu hút trí thức Việt Nam, cả trong và ngoài nước, cần được chú trọng - Ảnh: VNU
Ngoài ra, vấn đề sở hữu trí tuệ vẫn là một nội dung then chốt. Khi doanh nghiệp tư nhân đầu tư tạo ra sản phẩm có sở hữu trí tuệ, hoặc khi Nhà nước và doanh nghiệp cùng đầu tư cho nhà khoa học, cơ sở đào tạo nhằm tạo ra các phát minh, sáng chế, việc phân chia quyền lợi vẫn là bài toán phức tạp. Luật Khoa học và Công nghệ đã bước đầu có những quy định theo hướng "cởi trói", song cần tiếp tục hoàn thiện. Đây là những điều kiện tiên quyết để tháo gỡ các vướng mắc và thúc đẩy hoạt động đầu tư hiệu quả hơn.
Cũng theo GS Đức, chuyển đổi số đang dần trở thành một phương thức sản xuất mới, đồng thời là lực lượng sản xuất quan trọng. Với những địa phương còn hạn chế về nguồn lực, giải pháp trước mắt là thuê hạ tầng số, trung tâm máy chủ, trung tâm tính toán để giảm chi phí đầu tư ban đầu, qua đó tiết kiệm ngân sách.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh các mô hình hợp tác công - tư (PPP), trong đó Nhà nước và doanh nghiệp cùng đầu tư, cùng khai thác hiệu quả hạ tầng số. Việc vận dụng kinh nghiệm từ các quỹ đổi mới sáng tạo quốc gia, các chương trình khoa học - công nghệ cấp quốc gia sẽ giúp địa phương có thêm nguồn lực để xây dựng các trung tâm phục vụ chuyển đổi số. Đồng thời, cần tăng cường sự đồng hành của doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ đầu tư vào lĩnh vực chuyển đổi số tại địa phương.
Thực tế cho thấy, những cơ chế ưu đãi phù hợp có thể tạo cú hích lớn. Đơn cử như Thâm Quyến (Trung Quốc) áp dụng mức thuế thu nhập cá nhân khoảng 5%, qua đó thu hút nhiều doanh nghiệp lớn đầu tư hạ tầng, từng bước trở thành một trung tâm phát triển năng động và hiệu quả.
Để đáp ứng kỳ vọng về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, có một số giải pháp quan trọng. Trước hết là giải pháp tình thế, cần ngay lập tức tổ chức đào tạo, đào tạo lại qua các khóa ngắn hạn cho nhân lực về AI, công nghệ chuyển đổi số, blockchain. Có thể đào tạo cử nhân, kỹ sư các lĩnh vực kỹ thuật trong 3-6 tháng để có chuyên gia đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số. Cùng với đó, có chính sách thu hút nhân tài, chuyên gia hàng đầu trong các lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn. Đồng thời xây dựng xã hội số; điểm cuối cùng là đào tạo trong giáo dục phổ thông và đại học.
Để tiến tới kinh tế tri thức, chuyển đổi số, chúng ta phải đổi mới chương trình đào tạo. Với tư cách là người thầy, bên cạnh kiến thức, điều không thể thiếu là đào tạo cho sinh viên khát vọng cống hiến, tình yêu Tổ quốc, khát vọng dân tộc tự lực tự cường, giàu mạnh, hùng cường và vươn lên. Điều này thổi hồn vào nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện sứ mệnh lớn lao mà văn kiện Đại hội XIV đã đề ra.