Xem thêm thông tin của Báo PNVN trên
Phụ nữ Việt Nam
MỚI NHẤT ĐỘC QUYỀN MULTIMEDIA CHUYÊN ĐỀ
31/10/2025 - 20:35 (GMT+7)

Thích ứng nền kinh tế số và AI: Phụ nữ Việt không chỉ cần kỹ năng, mà còn nên có tư duy đổi mới

Gia Bảo
Thích ứng nền kinh tế số và AI: Phụ nữ Việt không chỉ cần kỹ năng, mà còn nên có tư duy đổi mới

Phụ nữ Việt Nam thích ứng nền kinh tế số và AI đòi hỏi phải có đủ kiến thức và tư duy để hội nhập

Trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo đang xâm nhập và định hình mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, phụ nữ Việt Nam không chỉ cần trang bị những kỹ năng về công nghệ để thích ứng, mà còn nên có tư duy đổi mới để tận dụng cơ hội, làm chủ công nghệ, khẳng định vị thế của mình trong không gian công nghệ mới.

Thời gian gần đây, kinh tế số và trí tuệ nhân tạo (AI) đã trở thành những khái niệm quen thuộc, mở ra nhiều cơ hội phát triển mới cho Việt Nam. Tuy nhiên, kinh tế số, AI cũng tạo ra không ít thách thức, đặc biệt với lao động nữ - nhóm dễ bị tác động khi chưa kịp thích ứng với nhịp thay đổi nhanh chóng của công nghệ.

Phụ nữ Việt Nam thích ứng nền kinh tế số và AI: Không chỉ cần kỹ năng, mà còn phải có tư duy đổi mới- Ảnh 1.

Tiến sĩ Trương Thị Mỹ Nhân

Phóng viên Báo Phụ nữ Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Trương Thị Mỹ Nhân, Viện Kinh tế - Xã hội và Môi trường, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh để làm rõ hơn về những tác động của AI tới phụ nữ Việt Nam và những chính sách, điều kiện mà lực lượng lao động quan trọng này cần phải chuẩn bị để thích ứng với AI trong tương lai gần.

- Là người nghiên cứu chuyên sâu về kinh tế và chính sách, theo quan điểm của Tiến sĩ, đâu là những cơ hội và tác động của AI tới kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện tại và đến năm 2045?

TS Mỹ Nhân: Từ cuối thế kỷ XVIII đến nay, thế giới chứng kiến sự phát triển nhảy vọt nhờ tác động của các cuộc cách mạng công nghiệp. Đặc biệt, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên công nghệ số, AI, dữ liệu lớn (Big Data), chuỗi khối (Blockchain)… đang mở ra các cơ hội và tiềm năng tăng trưởng vượt bậc cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Đó chính là cơ hội gia tăng năng suất lao động, tạo động lực quan trọng bứt phá cho phát triển kinh tế số, giúp Việt Nam thực hiện được mục tiêu đến năm 2030, kinh tế số đóng góp 30% GDP. AI tạo ra làn sóng đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi năng lượng, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời, trí tuệ nhân tạo sẽ tạo thêm nhiều việc làm có chất lượng, đây là cơ hội để giảm thiểu thất nghiệp đối với quốc gia đang trong thời kỳ dân số vàng.

Trong báo cáo "The changing wealth of nations - Managing assets for the future" (Sự thay đổi của cải của các quốc gia - quản lý tài sản cho tương lai) do World Bank công bố năm 2021 khẳng định: Sự giàu có toàn cầu chưa bao giờ lớn hơn thế, nhưng những rủi ro mà nó phải đối mặt cũng chưa bao giờ lớn hơn thế. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. AI gây ra nhiều thách thức trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường.

Ngay trước mắt, AI dẫn đến làn sóng cắt giảm việc làm khiến nhiều lao động thiếu kỹ năng, lao động nông thôn bị bỏ lại phía sau. Nguy cơ bất bình đẳng do khả năng tiếp cận và ứng dụng AI không đồng đều giữa vùng miền. AI cũng làm tiêu tốn năng lượng hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Hơn hết, AI có thể gây ra những rủi ro lớn về bảo mật thông tin cá nhân. Tóm lại, sự phát triển của AI đặt ra nhiều cơ hội và thách thức, định hình lại cách thức con người làm việc, và tương tác với thế giới xung quanh.

Phụ nữ Việt Nam thích ứng nền kinh tế số và AI: Không chỉ cần kỹ năng, mà còn phải có tư duy đổi mới- Ảnh 2.

Cuốn sách do Tiến sĩ Trương Thị Mỹ Nhân xuất bản trong thời gian gần đây được đánh giá cao

- Với những cơ hội và thách thức nêu trên, lực lượng lao động của Việt Nam, trong đó đặc biệt là phụ nữ cần hành động gì để thích ứng khi AI trở thành xu thế tất yếu?

TS Mỹ Nhân: Việt Nam đang ở trong thời kỳ dân số vàng, có thể phát triển vượt bậc nếu khai thác tốt cơ hội gia tăng năng suất lao động mà AI mang đến. Trên thực tế, nữ giới chiếm khoảng 48% lực lượng lao động Việt Nam (năm 2024), song tập trung chủ yếu vào các ngành dễ bị ảnh hưởng bởi tự động hoá và AI như: nông nghiệp, dệt may, da giày, dịch vụ bán lẻ, các công việc tự sản tự tiêu…Mức độ tham gia của nữ giới vào lĩnh vực AI, khoa học dữ liệu, công nghệ thông tin còn thấp. Song cũng không thể phủ nhận rằng, đóng góp của các nhà nghiên cứu, lãnh đạo nữ ngày càng tăng lên, chứng tỏ phụ nữ hoàn toàn có khả năng đáp ứng các công việc đòi hỏi trình độ cao nếu dám vượt ra khỏi vùng an toàn, được đào tạo và có cơ hội tham gia.

Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách để giảm bất bình đẳng giới, tạo cơ hội để phụ nữ tham gia sâu vào các công việc đòi hỏi trình độ cao. Song do tính chất nghề nghiệp, sức khoẻ, kỹ năng thích ứng với những thay đổi của công nghệ nên phụ nữ vẫn là đối tượng dễ tổn thương trước tác động của AI.

Để có thể phát triển trong kỷ nguyên AI, người lao động nói chung và phụ nữ Việt Nam nói riêng cần chuẩn bị tốt kiến thức chuyên môn, kỹ năng mềm để thích ứng linh hoạt, đảm bảo sức khỏe thể chất và tinh thần tốt. Điều này đòi hỏi phải cập nhật và điều chỉnh lại các chương trình đào tạo hiện đại theo hướng phát triển đồng bộ cả kiến thức và kỹ năng, xây dựng quan hệ đối tác công - tư trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, đồng thời tập trung phát triển nhân tài trong nước bằng cách mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục số.

- Vậy thách thức lớn nhất hiện nay trong việc thu hẹp khoảng cách giới trong tiếp cận và ứng dụng công nghệ AI của Việt Nam, trong đó đặc biệt là phụ nữ là gì, thưa tiến sĩ?

TS Mỹ Nhân: Khoảng cách giới trong lĩnh vực công nghệ số và AI thể hiện ở tỷ lệ phụ nữ tham gia học tập, nghiên cứu thấp, ít có tiếng nói trong quá trình xây dựng chính sách phát triển và ứng dụng AI. Theo Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu năm 2025 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), chỉ số khoảng cách giới toàn cầu của Việt Nam là 0,713, xếp thứ 74/148 quốc gia, giảm 2 bậc so với năm 2024.

Ở Việt Nam, khoảng cách giới vẫn khá lớn, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao, ứng dụng AI. Có nhiều nguyên nhân gây ra khoảng cách giới trong tiếp cận và ứng dụng công nghệ AI nhưng theo tôi, thách thức lớn nhất trong việc thu hẹp khoảng cách giới chính là "định kiến giới". Chính định kiến này khiến nữ giới ít có cơ hội tiếp cận với giáo dục STEM, khó tham gia vào những công việc đòi hỏi trình độ cao, ứng dụng công nghệ mới.

Nếu không giải quyết được rào cản về định kiến giới, mọi chính sách đào tạo hay hỗ trợ kỹ năng số cho phụ nữ sẽ khó phát huy hiệu quả. Theo một nghiên cứu gần đây thì vệc được đào tạo ở cấp Đại học trở lên đã xoá nhoà gần như hoàn toàn khoảng cách về năng lực chuyên môn và cơ hội tham gia vào thị trường lao động. Điều này chứng tỏ rằng, trình độ đào tạo là một trong những yếu tố ảnh hưởng đển việc thu hẹp khoảng cách giới.

Phụ nữ Việt Nam thích ứng nền kinh tế số và AI: Không chỉ cần kỹ năng, mà còn phải có tư duy đổi mới- Ảnh 3.

- Dựa trên điều kiện thực tế, các cơ sở giáo dục và doanh nghiệp cần có những chính sách, mô hình đào tạo nào để hỗ trợ lực lượng lao động nói chung và phụ nữ nói riêng có thể tham gia mạnh mẽ hơn vào lĩnh vực công nghệ và AI?

TS Mỹ Nhân: Đón đầu xu hướng phát triển tất yếu của công nghệ AI, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI, trong đó "Bộ tứ trụ cột", Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 về "Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030… thực sự mở ra cơ hội để lực lượng lao động, đặc biệt là phụ nữ tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực công nghệ và AI.

Gần đây, Nghị quyết 71 về giáo dục đào tạo cũng đặt mục tiêu đến năm 2030 bậc phổ thông phải đạt kết quả bước đầu về năng lực công nghệ, trí tuệ nhân tạo, và tiếng Anh. Với những nỗ lực đó, Việt Nam đã tiến một bước đáng kể, vươn lên thứ 39 trong số 193 quốc gia về mức độ sẵn sàng ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) theo báo cáo của Oxford Insight năm 2023.

Trên cơ sở hỗ trợ của Nhà nước thông qua các quỹ đầu tư, chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế và hỗ trợ pháp lý, triển khai mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ AI, từ phía doanh nghiệp và trường Đại học, Viện nghiên cứu cần tăng cường liên kết, hợp tác để đào tạo theo nhu cầu thực tế, thông qua chương trình thực tập, học bổng, vườn ươm AI, tổ chức các khoá học ngắn đa dạng hình thức. Chú trọng đào tạo lại, nâng cao kỹ năng và trình độ cho lực lượng lao động công nghệ sẽ giúp tận dụng nguồn lực hiện có một cách hiệu quả.

Về phía Hiệp hội, cộng đồng: có thể ưu tiên thành lập mạng lưới các hướng dẫn viên nữ trong lĩnh vực AI, tổ chức các hội thảo, toạ đàm, thành lập câu lạc bộ "phụ nữ và AI" tại khu phố, trường đại học, khu công nghệ cao…

- Ngoài các chính sách hỗ trợ, theo quan điểm của bà, lao động nữ Việt Nam cần phải chuẩn bị ngay những hành trang gì để thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế số - nơi công nghệ AI ngày càng ảnh hưởng và thâm nhập sâu rộng?

TS Mỹ Nhân: Bên cạnh các biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ của Nhà nước thì phụ nữ Việt cũng cần chủ động học tập, trau dồi kiến thức về công nghệ AI, hình thành tư duy phân tích dựa trên thông tin dữ liệu, đồng thời bổ sung kỹ năng mềm như kỹ năng phản biện, kỹ năng giao tiếp, làm việc trên nền tảng số, sẵn sàng tham gia và nắm bắt các cơ hội khởi nghiệp sáng tạo.

Tóm lại, trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo đang xâm nhập và định hình mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, hành trang phụ nữ Việt cần chuẩn bị không chỉ là kỹ năng về công nghệ, mà còn là tư duy đổi mới, bản lĩnh dám bứt phá khỏi vùng an toàn. Đây là nền tảng để phụ nữ không chỉ "thích ứng" mà còn tận dụng cơ hội từ AI để nâng cao vị thế của mình trong nền kinh tế số.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận