Tích hợp 3 Chương trình mục tiêu để ưu tiên hỗ trợ vùng lõi nghèo
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Việc tích hợp không làm giảm chính sách, không thu hẹp phạm vi hỗ trợ mà tạo điều kiện tập trung, ưu tiên hơn cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, khu vực hiện là lõi nghèo của cả nước
Thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035, đại biểu Vương Thị Hương (Tuyên Quang) cho rằng, việc kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia đến hết năm 2026 là giải pháp cần thiết để các địa phương hoàn thành nhiệm vụ và giảm áp lực giải ngân.
Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tiễn cho thấy chỉ kéo dài thời gian là chưa đủ để tháo gỡ vướng mắc về cơ chế.
Trong báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư hiện tập trung vào xây mới, nâng cấp, sửa chữa trạm y tế xã, phường, thị trấn; đại biểu cho rằng, chỉ đầu tư cho tuyến y tế xã là chưa đủ để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho người dân vùng khó khăn vì trong thực tế, bệnh viện đa khoa khu vực là tuyến liên kết quan trọng giữa y tế cơ sở và tuyến tỉnh, quyết định chất lượng khám, chữa bệnh của cả vùng.
Nhấn mạnh, nhiều bệnh viện đa khoa khu vực ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi xuống cấp, thiếu phòng chức năng, thiếu trang thiết bị nhưng lại không thuộc đối tượng đầu tư của chương trình, đại biểu Hương cho rằng, để bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống và thực sự nâng cao năng lực y tế, cần bổ sung nhiệm vụ đầu tư nâng cấp, cải tạo, sửa chữa và trang thiết bị cho bệnh viện đa khoa khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi vào nội dung chính sách.
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà (Quảng Ninh) cho biết, thời gian qua, Dự án phát triển sản xuất của các chương trình mục tiêu còn nhiều hạn chế, bất cập. Nguyên nhân hạn chế, một phần do quy định về nguyên tắc, tiêu chí, quy trình thủ tục, điều kiện, đối tượng hưởng chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất còn phức tạp, bất cập, yêu cầu cao về quản lý, theo quy định quản lý tài chính, tài sản công.
Đại biểu lấy ví dụ việc hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị "đơn vị chủ trì liên kết và đối tượng liên kết phải có hợp đồng, biên bản hợp tác về đào tạo, kỹ thuật, cung ứng vật tư đầu vào và thu hoạch chế biến, tiêu thụ… yêu cầu người nông dân phải liên kết với doanh nghiệp trong phát triển sản xuất, phải lập hồ sơ dự án, thông qua hội đồng thẩm định của Bộ hoặc Hội đồng Nhân dân tỉnh; quá trình thực hiện phải lập kế hoạch dự toán, hoá đơn chứng từ mua sắm gồm cả giống cây trồng vật nuôi…"
Theo đại biểu, quy định hiện hành như trên có điểm chưa phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là tại các địa bàn miền núi, dân tộc thiểu số, điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, dẫn đến các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất tỷ lệ giải ngân thấp, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chương trình.
Do đó, đại biểu đề nghị có cơ chế đặc thù phù hợp hơn đối với dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, cần đơn giản hoá thủ tục hành chính, giảm điều kiện, quy trình thủ tục; Chính phủ quy định nguyên tắc, tiêu chí, khung mức hỗ trợ, phân cấp thẩm quyền cho cấp tỉnh, cấp xã quyết định hồ sơ phê duyệt, nghiệm thu, hỗ trợ phát triển sản xuất phù hợp với đặc điểm vùng miền, tình hình phát triển sản xuất của địa phương.
Trong đó, cần có chính sách hỗ trợ trực tiếp bằng tiền cho hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo qua hình thức đăng ký nhiệm vụ phát triển sản xuất rừng phù hợp.
Ví dụ trồng rừng, thời gian sản xuất 2 đến 3 năm, sản xuất theo hộ gia đình được hỗ trợ bằng tiền qua hình thức đăng ký và nghiệm thu thanh toán, phù hợp với vùng miền núi, dân tộc thiểu số.
Góp ý vào Dự thảo Nghị quyết quy định lồng ghép các nguồn lực giữa các Chương trình mục tiêu quốc gia trên cùng địa bàn, đại biểu cho rằng, cần quy định cơ chế lồng ghép vốn trong chương trình mục tiêu, nhất là trong điều kiện nguồn vốn ngân sách bố trí cho chương trình còn hạn chế.
Trên thực tế các địa phương đã thực hiện lồng ghép vốn đầu tư công từ ngân sách địa phương, lồng ghép vốn xã hội hoá cho các dự án đầu tư của Chương trình mục tiêu quốc gia.
Một số địa phương chưa thực hiện lồng ghép vốn do không có nguồn lực khác lồng ghép thực hiện Chương trình; quy định hiện hành về lồng ghép vốn giữa các Chương trình mục tiêu quốc gia còn nặng về nguyên tắc quản lý, phạm vi vốn được lồng ghép, phương thức lồng ghép còn chưa phù hợp, vướng mắc trong tổ chức thực hiện, hiệu quả không cao.
Do đó, đại biểu đề nghị bổ sung vào dự thảo Nghị quyết quy định lồng ghép vốn ngân sách địa phương, các nguồn vốn hợp pháp khác, vốn đầu tư từ các chương trình dự án khác để thực hiện Chương trình và quy định linh hoạt phù hợp về phương thức lồng ghép để thực hiện hiệu quả.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu về Chủ trương sáp nhập ba chương trình mục tiêu quốc gia thành một, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, đây là quyết tâm của Chính phủ, thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước, làm cho người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc, thiểu số và miền núi.
Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ đã thể hiện rõ trong báo cáo là ngoài các cái mục tiêu chung cần tập trung ưu tiên xây dựng nông thôn mới giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đồng thời nâng cao hiệu quả thực thi, tránh chồng chéo, trùng lặp chính sách, phân cấp phân quyền triệt để cho địa phương và kéo dài thời gian hỗ trợ đến năm 2035 thay vì năm 2030 như Chương trình hiện hành để tập trung được nguồn lực dài hạn, đồng bộ và hiệu quả hơn.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định: Việc tích hợp không làm giảm chính sách, không thu hẹp phạm vi hỗ trợ mà tạo điều kiện tập trung, ưu tiên hơn cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, khu vực hiện là lõi nghèo của cả nước...