pnvnonline@phunuvietnam.vn
Truyền thông hướng về vùng khó, tạo sức lan tỏa trong cộng đồng

Điểm nhấn trong công tác truyền thông là việc tổ chức các hội thi.
Tuyên truyền, vận động góp phần xóa bỏ định kiến và khuôn mẫu giới trong gia đình, cộng đồng

Bà Dương Thị Ngân
- Xin bà cho biết, trong quá trình triển khai Dự án 8 "Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em" vùng đồng bào DTTS và miền núi, Hội LHPN huyện Văn Chấn có mô hình hay cách làm sáng tạo nào góp phần đưa hoạt động bình đẳng giới đến gần hơn với phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số, giúp nâng cao tiếng nói và vai trò đại diện của phụ nữ dân tộc thiểu số trong cộng đồng?
Xác định tuyên truyền, vận động thay đổi "nếp nghĩ, cách làm" góp phần xóa bỏ các định kiến và khuôn mẫu giới trong gia đình và cộng đồng, những tập tục văn hóa có hại cùng một số vấn đề xã hội cấp thiết cho phụ nữ, trẻ em là bước đi đầu tiên, quyết định sự thay đổi nhận thức tiến tới thay đổi hành động của cộng đồng, các cấp Hội LHPN huyện Văn Chấn đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương thành lập, duy trì được 96 Tổ truyền thông cộng đồng; tổ chức 10 lớp tập huấn cho gần 803 lượt người tham gia...
Để tăng cường tiếng nói và sự tham gia của phụ nữ, trẻ em trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng, giám sát, phản biện; hỗ trợ phụ nữ tham gia lãnh đạo trong hệ thống chính trị, Hội LHPN huyện tham mưu cử 34 cán bộ tham gia lớp tập huấn về tổ chức "Đối thoại chính sách cấp xã"; đồng thời tổ chức 6 hội nghị với 432 học viên. Đã có 35 cuộc đối thoại chính sách cấp xã và tại các cụm thôn bản giữa hội viên, phụ nữ với chính quyền về các vấn đề thiết thực như bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình, tảo hôn, xây dựng nông thôn mới và giải quyết các vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ, trẻ em.
Thành lập 14 Câu lạc bộ "Thủ lĩnh của sự thay đổi" tại 14 trường THCS tại các xã địa bàn đặc biệt khó khăn, với 420 học sinh và 14 dẫn trình viên tham gia. Tổ chức giao lưu, hướng dẫn vận hành, chia sẻ kinh nghiệm giữa các CLB, 2 lớp tập huấn cho 154 cán bộ, và hỗ trợ ban đầu mỗi CLB 3 triệu đồng để vận hành hoạt động hiệu quả.
Hội LHPN các cấp cũng tổ chức 155 cuộc truyền thông trực tiếp tại cộng đồng các nội dung về bình đẳng giới, bạo lực gia đình, thu hút hơn 17.460 lượt hội viên, phụ nữ và người dân tham gia; tổ chức 9 Hội thảo "Chia sẻ kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng các mô hình Tổ truyền thông cộng đồng" với 9.700 người tham dự.
Điểm nhấn trong công tác truyền thông là việc tổ chức các hội thi, liên hoan giao lưu các mô hình trong truyền thông xóa bỏ định kiến giới, phòng, chống bạo lực gia đình, mua bán phụ nữ và trẻ em.
Cấp huyện tổ chức 2 cuộc liên hoan với 16 đội thi từ các Tổ truyền thông cộng đồng, thu hút 600 người tham dự; cấp xã tổ chức 48 hội thi, liên hoan với 96 Tổ truyền thông cộng đồng, thu hút hơn 4.800 người. Nhiều tiểu phẩm hay, mang thông điệp truyền thông sâu sắc được thể hiện đa dạng, góp phần lan tỏa thông tin trong cộng đồng.
Kết quả này cho thấy sự nỗ lực của Hội LHPN các cấp trong việc đa dạng hóa các hình thức truyền thông cũng như mở rộng địa bàn truyền thông, hướng về vùng khó, tạo nên sức lan tỏa trong cộng đồng.
Tạo môi trường để phụ nữ và trẻ em thể hiện tiếng nói của mình
- Theo bà, cần cải thiện điều gì để tạo môi trường thuận lợi hơn cho phụ nữ và trẻ em thể hiện tiếng nói của mình?
Để tạo môi trường thuận lợi hơn cho phụ nữ và trẻ em thể hiện tiếng nói của mình, cần cải thiện trên nhiều khía cạnh, bao gồm giáo dục, pháp luật, văn hóa, và cơ chế hỗ trợ xã hội. Dưới đây là một số điểm cụ thể cần được chú trọng:
- Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức:
+ Giáo dục giới tính và quyền con người: Giúp phụ nữ và trẻ em hiểu rõ quyền của mình để có thể lên tiếng và tự bảo vệ.
+ Xóa bỏ định kiến giới trong giáo dục: Tránh phân biệt vai trò của nam và nữ từ nhỏ; khuyến khích trẻ em gái thể hiện bản thân, tham gia lãnh đạo, sáng tạo.
+ Đào tạo kỹ năng giao tiếp, phản biện và lãnh đạo: Đặc biệt trong các chương trình dành riêng cho nữ giới và thanh thiếu niên.
- Tạo cơ chế lắng nghe và phản hồi tiếng nói của phụ nữ và trẻ em: Thiết lập các kênh góp ý an toàn, bảo mật và dễ tiếp cận: Như đường dây nóng, hộp thư góp ý, nền tảng trực tuyến do nhà nước, trường học, tổ chức xã hội quản lý. Tham vấn phụ nữ và trẻ em trong các chính sách liên quan đến họ: Đặc biệt là trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, lao động và phòng chống bạo lực.
- Cải thiện khuôn khổ pháp lý và thực thi: Tăng cường thực thi luật bảo vệ phụ nữ và trẻ em: Như luật phòng chống bạo lực gia đình, xâm hại tình dục, lao động trẻ em... Xây dựng chính sách khuyến khích nữ giới tham gia vào các vị trí ra quyết định: Như trong hệ thống chính trị, quản lý nhà nước, doanh nghiệp…
- Thay đổi nhận thức và chuẩn mực xã hội: Truyền thông tích cực về vai trò và tiếng nói của phụ nữ, trẻ em: Thông qua phim ảnh, sách báo, mạng xã hội... Chống lại định kiến giới và mô hình gia trưởng: Thông qua các chiến dịch cộng đồng, giáo dục phụ huynh và nam giới.
- Xây dựng môi trường hỗ trợ an toàn và thân thiện: Không gian an toàn trong gia đình, trường học, cộng đồng: Đảm bảo phụ nữ và trẻ em không bị trấn áp, đe dọa hay kỳ thị khi lên tiếng. Tăng cường sự hiện diện của nữ giới trong vai trò cố vấn, người truyền cảm hứng: Để trẻ em và phụ nữ có hình mẫu tích cực.
- Từ thực tiễn triển khai dự án, theo bà yếu tố nào giúp mô hình đó thực sự phát huy hiệu quả trong thực tiễn và có thể nhân rộng?
Để một mô hình hoạt động bình đẳng giới thực sự phát huy hiệu quả trong thực tiễn và có thể nhân rộng, cần đảm bảo một số yếu tố cốt lõi sau:
- Cần có sự ủng hộ rõ ràng từ cấp lãnh đạo (cấp xã, cấp huyện) trong việc thực hiện và lan tỏa mô hình. Các lãnh đạo nữ và nam cùng tham gia thúc đẩy bình đẳng giới là hình mẫu tích cực cho cộng đồng noi theo.
- Sự tham gia thực chất của cộng đồng: Phụ nữ, nam giới, trẻ em cần được tham gia từ đầu vào quá trình thiết kế, thực hiện và giám sát mô hình. Đặc biệt cần lắng nghe tiếng nói của những nhóm yếu thế: phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ đơn thân, người khuyết tật, trẻ em gái ở vùng sâu vùng xa.
- Dựa trên nhu cầu thực tiễn và đặc điểm địa phương: Mô hình phải xuất phát từ vấn đề cụ thể tại địa phương, chứ không thể sao chép từ nơi khác. Có sự linh hoạt, điều chỉnh phù hợp với văn hóa, trình độ, điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương.
- Hệ thống pháp lý và chính sách hỗ trợ đồng bộ: Các mô hình hiệu quả thường được hỗ trợ bởi luật pháp và chính sách rõ ràng, như Luật Bình đẳng giới, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới… Cần phối hợp đa ngành: chính quyền, hội phụ nữ, trường học, y tế, công an, tổ chức xã hội…
- Đào tạo và nâng cao năng lực liên tục: Đội ngũ triển khai cần được tập huấn kỹ năng giới, kỹ năng làm việc cộng đồng, kỹ năng truyền thông. Phải có chương trình bồi dưỡng cho người dân để nâng cao hiểu biết và thay đổi nhận thức về bình đẳng giới.
- Truyền thông và lan tỏa hiệu quả: Cần có chiến lược truyền thông phù hợp (báo chí, mạng xã hội, sân khấu hóa, hội thảo...) để tạo hiệu ứng tích cực, thay đổi hành vi. Ghi nhận, nêu gương điển hình tiên tiến, để làm động lực cho nơi khác học hỏi và làm theo.
- Giám sát, đánh giá và cải tiến thường xuyên: Cần có hệ thống theo dõi - đánh giá hiệu quả rõ ràng, minh bạch. Học từ kinh nghiệm thực tiễn, rút ra bài học và cải tiến mô hình để ngày càng phù hợp và hiệu quả hơn.
Tổ truyền thông cộng đồng là lực lượng nền tảng, cốt lõi
- Xin bà chia sẻ một câu chuyện thực tế ấn tượng cho thấy sự thay đổi rõ rệt trong quá trình triển khai Dự án 8 tại địa phương?
Xác định tuyên truyền, vận động thay đổi "nếp nghĩ, cách làm" góp phần xóa bỏ các định kiến và khuôn mẫu giới trong gia đình và cộng đồng, những tập tục văn hóa có hại cùng một số vấn đề xã hội cấp thiết cho phụ nữ, trẻ em là bước đi đầu tiên, quyết định sự thay đổi nhận thức tiến tới thay đổi hành động của cộng đồng, các cấp Hội LHPN huyện Văn Chấn đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương thành lập, duy trì được 96 Tổ truyền thông cộng đồng; Các tổ truyền thông cộng đồng đã rất chủ động, sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức truyền thông cũng như mở rộng địa bàn truyền thông, hướng về vùng khó, tạo nên sức lan tỏa trong cộng đồng.
Nổi bật nhất là Tổ truyền thông cộng đồng thôn Khe Kẹn, xã Cát Thịnh, huyện Văn Chấn. Các thành viên trong tổ bộc bạch "Trước đây nhiều việc chúng tôi không biết, ở nhà chồng bảo gì làm nấy. Sau khi được nghe truyền thông thì thấy trong gia đình phụ nữ cũng có vị trí ngang với đàn ông, người chồng cũng có trách nhiệm chia sẻ công việc nhà, giúp vợ chăm sóc con cái; ngoài xã hội thì không chỉ có đàn ông mới được tham gia các hoạt động mà phụ nữ cũng có quyền đó...".
"Ngày trước quan niệm ở đây phụ nữ chỉ ở nhà làm nương rẫy, không đi học, 15 tuổi lấy chồng đẻ con, mình thấy vất vả lắm. Giờ có Tổ truyền thông cộng đồng, các anh chị tuyên truyền nhiều nội dung có ích về bình đẳng giới, quyền của phụ nữ, chăm sóc sức khỏe sinh sản, từ đó giúp phụ nữ hiểu biết hơn, biết chăm sóc bản thân, gia đình, con cái...".
Trình độ dân trí không đồng đều, đời sống người dân còn nhiều khó khăn, để thay đổi được nhận thức của bà con cần có quá trình. Trước đây ở xóm có những trường hợp uống rượu say đánh đập vợ con, chúng tôi đã đến tận nhà để tuyên truyền, nay đã có thay đổi; tình trạng rượu chè bê tha, bạo lực gia đình cũng không còn nữa. Hay như trước đây nhiều người có tư tưởng thích con trai, nay thì không còn suy nghĩ đó, nhiều gia đình sinh toàn con gái vẫn vui vẻ...
Các Tổ truyền thông cộng đồng là lực lượng nền tảng, cốt lõi trong công tác tuyên truyền vận động. Với 96 Tổ truyền thông cộng đồng, 803 thành viên, trong đó có 548 thành viên là nam giới, đều là các Bí thư Chi bộ, Trưởng Ban công tác Mặt trận, người có uy tín trong cộng đồng, các Tổ truyền thông đã đi sâu vào cộng đồng dân cư, lồng ghép các nội dung tuyên truyền bình đẳng giới vào các cuộc họp chi bộ, họp xóm để vận động "thay đổi nếp nghĩ, cách làm" trong Nhân dân, những trường hợp khó khăn thì đến tận nhà để động viên, giúp đỡ. Từ hoạt động hết sức hiệu quả của tổ truyền thông cộng đồng đã tạo nên sự thay đổi rõ rệt trong nhận thức và hành động của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương.
Tảo hôn, bạo lực gia đình… vẫn được xem là "việc riêng"
- Theo bà, điều gì là rào cản lớn nhất để những mô hình hiệu quả được triển khai rộng rãi và thực chất tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi?
Theo tôi, có một số rào cản cụ thể, như sau: Thứ nhất, chính là sự thiếu hiểu biết, nhận thức còn hạn chế về giới: Tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhận thức về vai trò của phụ nữ và trẻ em gái còn mang nặng định kiến truyền thống. Cán bộ cơ sở đôi khi chưa phân biệt rõ "bình đẳng giới" và "ưu tiên phụ nữ". Nhận thức về bình đẳng giới trong các nhóm xã hội vẫn còn thiếu sự thống nhất. Tư tưởng "trọng nam, khinh nữ" ngự trị dai dẳng trong xã hội vẫn tiếp diễn là hệ quả xấu đối với nam giới trong đối xử với nữ giới, là rào cản trong quá trình thực hiện bình đẳng giới.
- Đội ngũ triển khai còn yếu và thiếu ổn định: Cán bộ chuyên trách giới ở cơ sở còn thiếu kỹ năng, chưa được đào tạo bài bản. Công tác luân chuyển cán bộ khiến việc duy trì mô hình gặp khó khăn.
- Nguồn lực tài chính và vật chất: Các địa phương chủ yếu dựa vào nguồn kinh phí hỗ trợ từ Dự án, còn thiếu kinh phí, phương tiện triển khai, đặc biệt là truyền thông và đào tạo cộng đồng.

- Cơ chế phối hợp chưa chặt chẽ: Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao trong quá trình triển khai thực hiện Dự án; Nhận thức của một bộ phận vẫn xem đây là công việc của phụ nữ, do đó, công tác phối hợp giữa Hội Phụ nữ và bộ phận khác thiếu liên kết do đó hiệu quả chưa cao... Dễ xảy ra tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót đối tượng.
- Khó khăn về ngôn ngữ và phong tục tập quán: Nhiều nơi, rào cản ngôn ngữ khiến phụ nữ dân tộc thiểu số ngại tham gia hoặc không hiểu quyền của mình. Một số tập tục còn tồn tại như tảo hôn, trọng nam khinh nữ, bạo lực gia đình vẫn được xem là "việc riêng".
- Trong quá trình thực hiện, bà thấy có gì cần tháo gỡ hoặc đề xuất gì để Dự án 8 thực sự đi vào đời sống và phát huy hiệu quả lâu dài?
Để Dự án 8 thực sự đi vào đời sống và phát huy hiệu quả lâu dài, theo tôi cần triển khai một số nội dung sau:
- Tăng cường truyền thông thay đổi nhận thức, phù hợp văn hóa của địa phương: Sử dụng ngôn ngữ dân tộc, hình ảnh, câu chuyện gần gũi. Kết hợp các hình thức: sân khấu hóa, loa phát thanh, mạng xã hội (nếu có), trò chơi dân gian có nội dung giới. Mời già làng, trưởng bản, người có uy tín tham gia truyền thông, tạo sức lan tỏa.
- Đào tạo và duy trì đội ngũ nòng cốt tại cộng đồng: Tập huấn phụ nữ tiêu biểu, người trẻ có kỹ năng, cán bộ thôn bản làm lực lượng truyền thông viên cơ sở. Thiết lập mạng lưới "nam giới đồng hành vì bình đẳng giới" để thay đổi từ bên trong cộng đồng.
- Xây dựng chế độ chính sách mở rộng các đối tượng là phụ nữ chứ không riêng gì phụ nữ dân tộc thiểu số và phụ nữ hộ nghèo, phụ nữ làm chủ hộ, tài liệu cần mở rộng cả giới Nam và giới Nữ, bởi phụ nữ là nhóm yếu thế cần được hỗ trợ bảo vệ, nhưng lại là nhóm bị ảnh hưởng tác động là chính.
- Lồng ghép vào các chương trình sẵn có: Đưa nội dung Dự án 8 vào các buổi họp thôn, lớp học, chương trình y tế học đường, các cuộc họp tổ chức đoàn thể. Phối hợp với các dịch vụ như tư pháp, y tế, giáo dục để lồng ghép nội dung bình đẳng giới.
- Thiết lập và duy trì các mô hình điểm bền vững: Duy trì hoạt động của Câu lạc bộ "Thủ lĩnh của sự thay đổi"; tổ truyền thông cộng đồng, Địa chỉ tin cậy… Có chính sách duy trì sau khi kết thúc hỗ trợ dự án (từ ngân sách xã, các tổ chức đoàn thể hoặc doanh nghiệp đồng hành).
- Xin trân trọng cảm ơn bà đã dành thời gian trao đổi!