Báo PNVN đăng toàn văn tham luận "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Giải phóng phụ nữ và những vấn đề đặt ra hiện nay" của GS.TS Hoàng Chí Bảo, Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, tại Hội thảo 'Những vấn đề lý luận về công tác phụ nữ ở Việt Nam trong tình hình mới' do Hội LHPN Việt Nam phối hợp với Tạp chí Cộng sản tổ chức vào sáng ngày 16/1, tại Học viện Phụ nữ Việt Nam (Hà Nội).
1. Vấn đề giải phóng phụ nữ trong học thuyết giải phóng và phát triển của Hồ Chí Minh
GS.TS Hoàng Chí Bảo, Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương |
Là nhà tư tưởng Mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh trong sáu thập kỷ hoạt động cách mạng của mình đã đặc biệt quan tâm tới sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển dân tộc theo lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời chịu ảnh hưởng sâu sắc của cách mạng Tháng Mười Nga, năm 1917 và Thời đại mới do cuộc cách mạng đó “sinh thành”, Người đã hình thành tư tưởng của mình về giải phóng dân tộc, về con đường cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tư tưởng của Người hợp thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc, lý luận và phương pháp cách mạng Việt Nam thể hiện tinh thần triệt để và nhất quán, độc lập tự chủ và sáng tạo, không giáo điều, biệt phái, kết hợp nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, chủ nghĩa yêu nước của dân tộc với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân, giữa dân tộc với quốc tế và thời đại, giữa truyền thống với hiện đại.
Tư tưởng của Người hợp thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc, lý luận và phương pháp cách mạng Việt Nam thể hiện tinh thần triệt để và nhất quán, độc lập tự chủ và sáng tạo, không giáo điều, biệt phái, kết hợp nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, chủ nghĩa yêu nước của dân tộc với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân, giữa dân tộc với quốc tế và thời đại, giữa truyền thống với hiện đại.
Với Hồ Chí Minh, giải phóng là mục đích trực tiếp và phát triển là mục tiêu sâu xa, lâu dài, gắn liền mật thiết với nhau trong tiến trình cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ chủ kiến của Người trong việc tìm “Đường cách mệnh” để cứu nước, cứu dân, triết lý nhân sinh và hành động của Người, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, thực hành đoàn kết để tạo ra và nhân lên sức mạnh, theo đuổi hệ giá trị cốt lõi của phát triển: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Một sự nghiệp lớn đến như vậy, muốn thành công thì phải “Giữ chủ nghĩa cho vững”, lại phải “ít lòng tham muốn, ham muốn về vật chất”, dũng cảm, gan góc, hy sinh, không màng danh lợi, tuyệt đối ở ngoài vòng danh lợi. Chỉ như vậy mới có thể toàn tâm toàn ý phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân. Để thực hành “Ái Quốc”, “Ái Dân” thì phải luôn luôn lấy Đức là gốc, suốt đời đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đánh bại giặc nội xâm, kẻ thù nguy hiểm nhất luôn ẩn nấp ngay trong lòng mình. Đó là cuộc chiến đấu sẽ có không ít sự đau đớn mà người cách mệnh, Đảng cách mệnh phải có đủ dũng khí vượt qua và chiến thắng. Học thuyết giải phóng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh bao gồm bốn cuộc giải phóng lớn gắn liền với nhau trong tiến trình lịch sử lâu dài: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội loài người và giải phóng con người.
Đóng góp vô giá của Hồ Chí Minh trên tư cách nhà tư tưởng Mác xít sáng tạo, góp phần phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm phong phú và sâu sắc thêm kho tàng lý luận cách mạng thế giới tập trung nổi bật ở những điểm dưới đây:
- Đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử của các nước thuộc địa và phụ thuộc bởi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân. Đây là nơi thể hiện nổi bật nhất mâu thuẫn cơ bản giữa dân tộc đang mất độc lập chủ quyền với đế quốc, thực dân xâm lược. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội dù khác nhau về lợi ích và địa vị nhưng đều có chung ý thức và tình cảm dân tộc, kết tinh ở lòng yêu nước, đều có chung mục đích và khát vọng là đấu tranh giành độc lập tự do, giải phóng khỏi tình cảnh nô lệ, bị bóc lột, áp bức và nô dịch.
Đó là điểm khác biệt giữa phương Đông và châu Á, trong đó có Việt Nam so với phương Tây và châu Âu tư bản chủ nghĩa, nơi diễn ra phân hóa giai cấp sâu sắc giữa tư sản và vô sản, mâu thuẫn giải cấp diễn ra gay gắt hơn, trong khi ở các nước thuộc địa và phụ thuộc lại nổi bật ở mâu thuẫn dân tộc và giải phóng dân tộc.
Khi tình thế và thời cơ cách mạng giải phóng dân tộc đã ở vào giai đoạn chín muồi, bên thềm Cách mạng Tháng Tám, Người đã đưa ra một nhận định sáng suốt rằng, lợi quyền của dân tộc, của Tổ quốc phải đặt lên hàng đầu. Nếu không giải phóng được dân tộc thì chẳng những dân tộc vẫn ở trong vòng nô lệ, trong tình cảnh ngựa trâu mà lợi quyền giai cấp vạn kiếp cũng không đòi lại được.
Đó là điểm khác biệt giữa phương Đông và châu Á, trong đó có Việt Nam so với phương Tây và châu Âu tư bản chủ nghĩa, nơi diễn ra phân hóa giai cấp sâu sắc giữa tư sản và vô sản, mâu thuẫn giải cấp diễn ra gay gắt hơn, trong khi ở các nước thuộc địa và phụ thuộc lại nổi bật ở mâu thuẫn dân tộc và giải phóng dân tộc.
Khi tình thế và thời cơ cách mạng giải phóng dân tộc đã ở vào giai đoạn chín muồi, bên thềm Cách mạng Tháng Tám, Người đã đưa ra một nhận định sáng suốt rằng, lợi quyền của dân tộc, của Tổ quốc phải đặt lên hàng đầu. Nếu không giải phóng được dân tộc thì chẳng những dân tộc vẫn ở trong vòng nô lệ, trong tình cảnh ngựa trâu mà lợi quyền giai cấp vạn kiếp cũng không đòi lại được.
Ý chí mãnh liệt tranh đấu cho độc lập tự do đã được Người khẳng định: “Dù có phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập”. Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết là vì vậy.
- Sự sáng tạo vượt trội ở Hồ Chí Minh là đặt vấn đề giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, theo ý thức hệ tiên tiến của thời đại, vượt qua ý thức hệ phong kiến lỗi thời, cả ý thức hệ tư sản cũng như lập trường tiểu tư sản với những mâu thuẫn, hạn chế của nó.
Do đó, con đường giải phóng dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo, làm cách mạng đến nơi, tức là triệt để, theo gương cách mạng Tháng Mười Nga của Lênin. Cuộc cách mạng đó phải do Đảng cách mạng chân chính theo học thuyết Đảng kiểu mới của Lênin lãnh đạo.
Cách mạng trước hết phải có Đảng, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt mà chủ nghĩa chân chính nhất là chủ nghĩa Lênin, Mác - Lênin. Công Nông là gốc của cách mạng. Người đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp theo lập trường giai cấp công nhân, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhờ đó phát kiến ra con đường cách mạng Việt Nam, phát hiện ra quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, giải phóng dân tộc để có độc lập tự do và phát triển dân tộc tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để có hạnh phúc thực sự cho cá nhân và cộng đồng.
Do đó, con đường giải phóng dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo, làm cách mạng đến nơi, tức là triệt để, theo gương cách mạng Tháng Mười Nga của Lênin. Cuộc cách mạng đó phải do Đảng cách mạng chân chính theo học thuyết Đảng kiểu mới của Lênin lãnh đạo.
Cách mạng trước hết phải có Đảng, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt mà chủ nghĩa chân chính nhất là chủ nghĩa Lênin, Mác - Lênin. Công Nông là gốc của cách mạng. Người đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp theo lập trường giai cấp công nhân, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhờ đó phát kiến ra con đường cách mạng Việt Nam, phát hiện ra quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, giải phóng dân tộc để có độc lập tự do và phát triển dân tộc tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để có hạnh phúc thực sự cho cá nhân và cộng đồng.
Bằng cách đó, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công cuộc khủng hoảng triền miên về đường lối cứu nước ở Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX tới nửa đầu thế kỷ XX.
- Để thực hiện lý tưởng và mục tiêu cách mạng, phải xây dựng cho được chính đảng cách mạng của Việt Nam theo quy luật đặc thù của Đảng: Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam. Do đó, trong bản chất của Đảng, Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiên phong của dân tộc, của nhân dân lao động. Gắn bó máu thịt với nhân dân và dân tộc làm nên sức mạnh của Đảng.
- Đoàn kết và đại đoàn kết là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, là đường lối và chính sách chính trị lâu dài, nhất quán, có tầm quan trọng chiến lược chứ không phải là thủ đoạn, sách lược nhất thời.
- Đặt cách mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc phải chủ động, có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc. Phải kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Đó là năm điểm nổi bật trong lý luận và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh để thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Từ những vấn đề chung đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc để phát triển dân tộc Việt Nam vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã bao hàm tư tưởng về giải phóng phụ nữ với những kiến giải sâu sắc và toàn diện của Người.
Người xuất phát từ thực tiễn lịch sử Việt Nam, ý thức rõ rệt về truyền thống yêu nước của dân tộc cũng như yêu cầu của công cuộc giải phóng để bàn tới vấn đề giải phóng phụ nữ. Có mấy điểm đáng chú ý sau đây:
Thứ nhất, phụ nữ có vai trò vô cùng to lớn trong đời sống xã hội và trong sự phát triển của lịch sử.
Thứ hai, trong tình cảnh dân tộc mất độc lập chủ quyền, nhân dân bị bóc lột, áp bức và nô dịch thì phụ nữ là đối tượng cùng khổ nhất bởi không chỉ bị đế quốc thực dân xâm lược mà còn chịu đọa đầy bởi những bất công, bất bình đẳng trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến với những hủ tục nặng nề, những xiềng xích và cả những tàn dư của ý thức hệ phong kiến lạc hậu, lỗi thời.
Thứ ba, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc không thể không giải phóng phụ nữ. Trong cách mạng giải phóng dân tộc không thể không có sự tham gia của đông đảo phụ nữ.
Thứ tư, cách mạng và Đảng cách mạng phải tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các công việc thực tế để phụ nữ tự vươn lên, chủ động trong cuộc cách mạng bình quyền. Giải phóng phụ nữ là một trong những thước đo của tiến bộ và phát triển trong một xã hội dân chủ, văn minh.
Thứ năm, để thực hiện giải phóng phụ nữ, chị em phụ nữ phải được tổ chức thành lực lượng, thành phong trào. Hội phụ nữ là đoàn thể cách mạng và phụ nữ phải tham gia vào đời sống chính trị một cách chủ động, tự giác. Địa vị của phụ nữ, sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ đòi hỏi phải giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của phụ nữ từ trong gia đình tới xã hội.
Như vậy, có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ là một bộ phận hữu cơ của học thuyết giải phóng của Hồ Chí Minh. Đó không chỉ là tư tưởng chính trị và đường lối chính trị của Người mà còn là tư tưởng về phát triển xã hội, phát triển con người, phát triển văn hóa, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân văn và triết lý phát triển của Hồ Chí Minh.
2. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ
- Giải phóng phụ nữ là một bộ phận khăng khít của giải phóng dân tộc và xã hội. Cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của phụ nữ.
Ngay từ khi viết tác phẩm “Đường cách mệnh”, năm 1927, Người đã xác định “An Nam cách mệnh phải có nữ giới tham gia thì mới thành công”.
Như vậy, Người đã chẳng những nhấn mạnh vai trò của phụ nữ mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của phụ nữ trong đấu tranh cách mạng. Đó là sự tham gia trực tiếp của phụ nữ trong chính trị, cùng với cả dân tộc phải đem sức ta mà giải phóng cho ta, nhờ giải phóng mà trở thành người chủ và làm chủ thì đi vào xây dựng, kiến thiết chế độ mới, phụ nữ phải tham chính, phải hoạt động xã hội, tự khẳng định vị thế của mình, tự giải phóng mình khỏi những tự ti, mặc cảm, vượt ra khỏi những ràng buộc định kiến chật hẹp của gia đình mà nhập cuộc, đồng hành cùng dân tộc, vượt qua những cản trở và tự cản trở để tự phát triển.
Cách mệnh là phá cái cũ, đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt.
Cách mệnh là đổi mới và phát triển, là giải phóng để phát triển, phá bỏ mọi xiềng xích trói buộc, mọi rào cản kìm hãm sự phát triển con người và xã hội, làm cho mọi tiềm năng sáng tạo nơi con người được bộc lộ và phát huy để phát triển tự do mọi khả năng, mọi năng lực sẵn có của mỗi người.
Đó là cả một cuộc đấu tranh vừa chống giặc ngoại xâm vừa chống giặc nội xâm, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, kết hợp xây và chống, thường xuyên giải quyết mối quan hệ giữa cũ và mới, giữa tiến bộ với lạc hậu, giữa bảo thủ sức ỳ và sự trì trệ với cách tân, đổi mới và sáng tạo.
Do đó, bàn đến cách mạng trên quan điểm giải phóng và phát triển, Người nêu rõ:
“Cái gì không tốt thì làm cho tốt lên. Cái gì đã tốt thì làm cho tốt thêm”.
“Cái gì thái quá cũng không tốt. Bình đẳng thái quá cũng không tốt”.
“Cái gì tốt thì phải phổ biến, đề cao, cái gì xấu phải bảo nhau tránh”.
"Cái gì tốt thì ta nên khôi phục và phát triển, còn cái gì xấu thì ta phải bỏ đi”.
Những chỉ dẫn trên đây của Hồ Chí Minh không chỉ liên quan tới sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc chống đế quốc, thực dân, phong kiến, giành độc lập tự do cho Tổ quốc, cho dân tộc, trong đó có phụ nữ, chiếm tới một nửa xã hội mà còn liên quan tới công cuộc xây dựng chế độ mới, tiếp tục mục tiêu giải phóng để phát triển, đặc biệt là tạo môi trường, điều kiện cho sự phát triển mọi khả năng sáng tạo của phụ nữ trong mọi lĩnh vực, trong các quan hệ gia đình - tập thể và xã hội. Theo Hồ Chí Minh, thắng đế quốc phong kiến đã khó nhưng còn tương đối dễ, thẳng nghèo nàn lạc hậu còn khó khăn hơn nhiều.
Để vượt qua nghèo nàn lạc hậu phải phát triển kinh tế, phát triển xã hội, xây dựng văn hóa mới, con người mới, thực hành đạo đức mới, lối sống mới. Chị em phụ nữ phải tham gia vào công cuộc kiến thiết đó, phải tự ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình, từ cá nhân mỗi người đến tổ chức đoàn thể của mình là Hội liên hiệp phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong thư gửi phụ nữ nhân kỷ niệm Hai Bà Trưng và quốc tế phụ nữ, Người khẳng định: "trong cuộc kháng chiến to lớn của dân tộc ta, phụ nữ ta đang gánh vác một phần quan trọng".
- Để tiến hành triệt để sự nghiệp Giải phóng phụ nữ, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đảng và nhà nước phải đặc biệt quan tâm tới phụ nữ và công tác phụ nữ, lại phải đề cao trách nhiệm của cả xã hội, trách nhiệm của nam giới, đồng thời phải nâng cao trình độ nhận thức của phụ nữ, làm cho phụ nữ và Hội liên hiệp phụ nữ chủ động tích cực tự mình giành lấy bình quyền, thực hiện bình quyền.
Một luận điểm rất quan trọng, thực sự là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đặt vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, là thước đo phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, nếu không giải phóng phụ nữ, không thực hiện bình đẳng nam nữ thì mới chỉ là một nửa chủ nghĩa xã hội mà thôi, chỉ mới có chủ nghĩa xã hội một nửa.
“Phụ nữ chiếm một nửa tổng số nhân dân. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải thật sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ. Hiến pháp và pháp luật của nước ta đã quy định rõ điều đó”.
Nhận xét về tư tưởng này của Người, giáo sư Lê Thi đã viết: “Phụ nữ Việt Nam là mục tiêu và động lực của cách mạng. Bác Hồ thường nói: xem tư tưởng và việc làm của đàn bà, con gái thì biết xã hội tiến bộ thế nào. Chúng ta làm cách mạng để giành lấy tự do, dân chủ bình đẳng, trai gái đều ngang quyền nhau, không thể để phụ nữ bị áp bức cũng như coi thường phụ nữ. Quan điểm của Bác về vấn để giải phóng phụ nữ, danh quyền bình đẳng thực sự cho chị em là triệt để, cương quyết, nhất quán nhưng cách ứng xử và giải quyết lại tế nhị, linh hoạt theo phong cách Việt Nam giản dị, dễ hiểu”.
- Người đặc biệt quan tâm giáo dục cho cán bộ đảng viên, trong đó có phụ nữ ý thức việc quyền lợi và nghĩa vụ, nêu cao bổn phận và trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, làm cho mọi người hiểu rõ tiền đồ, triển vọng của mỗi người gắn liền với tiền đồ, triển vọng chung của Tổ quốc, của cách mạng, của Đảng. “Các cô các chú phải biết rằng tiền đồ cá nhân không thể tách rời tiền đồ của Tổ quốc, của nhân dân, của giai cấp, của cách mạng và của Đảng”.
Phải tự mình thấy rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước xã hội. "Các cô các chú giống như một bộ máy. Nếu có một bộ phận, một người nào mắc khuyết điểm mà không sửa chữa thì ảnh hưởng xấu đến cả guồng máy chung”.
Người đặc biệt quan tâm và luôn căn dặn chị em phụ nữ phải cố gắng học tập để vươn lên, để có đủ khả năng và tự tin làm tròn nhiệm vụ được giao phó “Chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được”.
Người còn giải thích rõ, học tập để nâng cao hiểu biết, có tri thức, có trình độ, đó là điều kiện để tiến tới bình đẳng với nam giới, để phụ nữ tham gia, thực hiện có kết quả quyền tham chính của mình và giới mình”. Phụ nữ lại càng phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng đuổi kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử”.
Nói rõ trách nhiềm xã hội của phụ nữ, Người nhấn mạnh trước hết vào xây dựng gia đình, thực hiện luật hôn nhân và gia đình.
“Phụ nữ và thanh niên cần phải gánh vai chính trong việc xây dựng đời sống và thực hiện đúng đắn luật hôn nhân và gia đình”.
- Người đặc biệt quan tâm tới việc thực hiện bình đẳng nam nữ, quyền bình đẳng giữa vợ chồng.
Đây là một nội dung thiết thực, trực tiếp nhất của công cuộc giải phóng phụ nữ, bắt đầu từ gia đình - những tế bào của xã hội. Người tỏ rõ thái độ phê phán trước những tiêu cực trong xã hội mà cụ thể là tình trạng coi thường phụ nữ, xem thường vai trò của phụ nữ và công tác phụ nữ cũng như hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ. Người đề cập tới quyền bình đẳng và thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng từ yêu cầu của đạo đức, văn hóa, từ trách nhiệm xã hội cũng như từ nghĩa vụ pháp lý, phải tôn trọng Hiến pháp và luật pháp để tôn trọng và bảo vệ quyền lợi, nhân phẩm của phụ nữ, làm cho chị em phụ nữ được hưởng quyền bình đẳng, được đối xử công bằn, tự do và có cuộc sống hạnh phúc.
Đây là một nội dung thiết thực, trực tiếp nhất của công cuộc giải phóng phụ nữ, bắt đầu từ gia đình - những tế bào của xã hội. Người tỏ rõ thái độ phê phán trước những tiêu cực trong xã hội mà cụ thể là tình trạng coi thường phụ nữ, xem thường vai trò của phụ nữ và công tác phụ nữ cũng như hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ. Người đề cập tới quyền bình đẳng và thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng từ yêu cầu của đạo đức, văn hóa, từ trách nhiệm xã hội cũng như từ nghĩa vụ pháp lý, phải tôn trọng Hiến pháp và luật pháp để tôn trọng và bảo vệ quyền lợi, nhân phẩm của phụ nữ, làm cho chị em phụ nữ được hưởng quyền bình đẳng, được đối xử công bằn, tự do và có cuộc sống hạnh phúc.
Người nhắc nhở “Chi bộ Đảng phải giáo dục đảng viên và nhân dân về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng”. Đặc biệt, Người phê phán nghiêm khắc đối với những biểu hiện xúc phạm phụ nữ, đánh chửi vợ con, bạo hành đối với phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Người coi đó chẳng những là dã man, là thấp kém về đạo đức, văn hóa mà còn là phạm pháp.
Trong lần về thăm Thái Bình, nói chuyện với đồng bào và cán bộ Thái Bình ngày 01 tháng 01 năm 1967, Người chỉ rõ “Bác nghe nói vẫn có người đánh chửi vợ. Đó là một điều xấu đáng xấu hổ. Như thế thì còn gì là tình nghĩa vợ chồng. Như thế là phạm pháp, là cực kỳ dã man”.
Người còn đứng về lợi quyền, nhân phẩm của phụ nữ để bảo vệ phụ nữ, để phê phán thói xấu đánh đập, chửi mắng vợ với những lời lẽ rất thấm thía, chứng tỏ Người thấu hiểu và thấu cảm với tình cảnh, cuộc sống của phụ nữ, dù Người không có cuộc sống riêng, không có gia đình riêng, không có vợ, có con. Người nói: “Đánh vợ là rất xấu.
Sao khi thì anh anh, em em mà khi thì lại thụi người ta. Nếu có đánh vợ thì phải sửa vì như thế là dã man, là phạm pháp luật (người viết nhấn mạnh). Đàn ông là người công dân, đàn bà cũng là người công dân, dù là vợ chồng, người công dân này đánh người công dân khác là phạm pháp”.
Đây là lời Người nói với cán bộ Hà Tây, ngày 10 tháng 02 năm 1967, ngay sau khi Người đã nhắc nhở, phê phán hiện trạng này ở Thái Bình.
Đó không chỉ thể hiện quan niệm của Người về bình đẳng, tôn trọng phụ nữ trên tinh thần dân chủ với cả hai bình diện pháp lý và nhân văn mà còn là sự quan tâm, cảm thông sâu sắc của Người đối với thân phận và cuộc sống của phụ nữ, nhất là phụ nữ nông dân ở nông thôn nơi còn tồn tại dai dẳng những hủ tục, những tàn tích phong kiến.
Một luận điểm khác của Người thể hiện giá trị và ý nghĩa sâu xa của một tư tưởng lớn, tư tưởng giải phóng phụ nữ, đó là “Giải phóng người đàn bà, đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong người đàn ông”. Đây là phát biểu của Người tại hội nghị thảo luận luật hôn nhân và gia đình, ngày 10 tháng 10 năm 1959. Đủ thấy tư tưởng dân chủ - pháp quyền và chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh theo tinh thần triệt để cách mạng sâu xa biết chừng nào.
Trong Di chúc, Người dành cho phụ nữ những tình cảm đặc biệt. Người căn dặn Đảng, Nhà nước và xã hội phải thường xuyên chăm lo tới sự phát triển của phụ nữ, đồng thời cũng ân cần nhắc nhở chị em phụ nữ phải nỗ lực phấn đấu vươn lên để mau chóng tiến bộ và trưởng thành. Phải chủ động giành lấy quyền bình đẳng thực sự của mình.
Trong Di chúc, Người dành cho phụ nữ những tình cảm đặc biệt. Người căn dặn Đảng, Nhà nước và xã hội phải thường xuyên chăm lo tới sự phát triển của phụ nữ, đồng thời cũng ân cần nhắc nhở chị em phụ nữ phải nỗ lực phấn đấu vươn lên để mau chóng tiến bộ và trưởng thành. Phải chủ động giành lấy quyền bình đẳng thực sự của mình.
“Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ”.
- Ngoài những nội dung chủ yếu nêu trên, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ còn thể hiện ở sự tôn vinh truyền thống vẻ vang của phụ nữ nước ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước, trong đấu tranh cách mạng, trong sản xuất và chiến đấu, trong xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc, trong nuôi dạy con cái nên người. Ở mọi lĩnh vực, phụ nữ nước ta đều có quyền tự hào là con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu, “giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Người nhấn mạnh rằng, tài năng sáng tạo và những đức tính tốt đẹp của biết bao thế hệ phụ nữ nước ta đã góp phần làm rạng rỡ truyền thống anh hùng bất khuất, thủy chung nhân hậu của dân tộc ta. Chính phụ nữ đã đóng góp xứng đáng vào việc xây dựng, phát huy và giữ gìn giang sơn gấm vóc Việt Nam.
Là một nhà tư tưởng, một con người hành động, suốt đời tranh đấu cho độc lập tự do của dân tộc và hạnh phúc của người dân, trong đó có phụ nữ, Người luôn gắn bó với nhân dân, suốt đời dâng hiến, hy sinh vì dân nên Người thường xuyên dành cho chị em phụ nữ nước ta sự chăm sóc ân cần, tình thương yêu chân thành, với một tấm lòng nhân hậu, vị tha, nhân ái bao dung làm xúc động triệu triệu trái tim con người, từ người dân trong nước đến bạn bè quốc tế. Người từng nói, mỗi người có một nỗi đau riêng, mỗi gia đình có một nỗi khổ riêng. Cộng tất cả những nỗi khổ đau đó lại là nỗi đau khổ của bản thân tôi. Người cũng từng thổ lộ, "tình thương yêu của tôi đối với đồng bào trong nước và đồng bào các dân tộc trên thế giới sẽ mãi mãi không bao giờ thay đổi". Chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh tỏa sáng mọi không gian, có sức sống và giá trị vượt thời gian, thể hiện một trí tuệ lỗi lạc, một nhân cách cao cả, đời sống thanh cao và lối sống cao thượng của Người. Cũng như mọi đối tượng, mọi tầng lớp, phụ nữ cảm nhận sâu sắc tình thương yêu thấm đậm nhân tình, nhân ái của Người”.
đã thực sự là di sản cao quý, là tài sản tinh thần vô giá, trở thành động lực tinh thần mạnh mẽ, bền bỉ giúp cho chị em phụ nữ nước ta phấn đấu vươn lên để tiếp tục có những đóng góp xứng đáng, có những cống hiến xuất sắc trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và hiện đại hóa, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, vì phát huy truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
3. Những vấn đề đặt ra hiện nay đối với phụ nữ, công tác phụ nữ và Hội liên hiệp phụ nữ ở nước ta
Sau 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo nên Thế và Lực, tiềm năng to lớn và triển vọng tươi sáng của dân tộc ta.
Trong thời kỳ phát triển mới hiện nay, có thể nói là một thời kỳ bước ngoặt của nước ta trên con đường phát triển, theo mục tiêu phát triển bền vững và hiện đại hóa, nhiều vấn dề mới đang đặt ra, cả thời cơ vận hội lớn để phát triển nhanh và bền vững, cả những thách thức và nguy cơ rơi vào phản phát triển, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh toàn dân tộc, trong đó có những khả năng, tiềm năng to lớn của phụ nữ để đón kịp và tận dụng tốt thời cơ cũng như vượt qua những thách thức và nguy cơ đang phải đối mặt. Nhìn từ yêu cầu giải phóng mọi tiềm năng, biến tiềm năng thành tiềm lực, phát triển thành thực lực của phụ nữ Việt Nam đóng góp vào sự phát triển nhanh và bền vững của dân tộc ta, cần phải nhìn nhận đúng và giải quyết tốt những vấn đề sau đây:
Một, chiến lược phát triển và chương trình hành động quốc gia vì sự phát triển, tiến bộ và bình đẳng giới của phụ nữ Việt Nam.
Đó phải là chiến lược phát triển bền vững dựa trên sự cân đối, hài hòa ba trụ cột: KINH TẾ - XÃ HỘI - MÔI TRƯỜNG mà sâu xa, thực chất là PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CON NGƯỜI, ở đây là người phụ nữ, giới nữ, hoạt động của phụ nữ và Hội liên hiệp phụ nữ.
Phải tạo thêm việc làm, nâng cao mức sống, chất lượng sống, cải thiện điều kiện lao động, môi trường sống và hoạt động của phụ nữ theo tinh thần khởi nghiệp sáng tạo. Dân sinh, dân trí, dân quyền, dân chủ cho phụ nữ luôn luôn là những định hướng nhân văn cho sự giải phóng và phát triển của phụ nữ, trong tình hình mới, trước yêu cầu mới.
Phải làm cho mọi lao động được toàn dụng, mọi khả năng sáng tạo được phát huy, mọi tài năng được sử dụng và trọng dụng để phụ nữ đóng góp xứng đáng vào nỗ lực vượt qua “điểm nghẽn” và tạo ra “đột phá” tương ứng về chất lượng nguồn nhân lực nước ta.
Phải chú trọng đổi mới đồng bộ từ nhận thức và nêu cao trách nhiệm xã hội của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ, chính sách và cơ chế thúc đẩy phát triển cho phụ nữ, đầu tư nguồn lực và lựa chọn phương thức phân bổ nguồn lực hợp lý để phát triển phụ nữ, chủ động nỗ lực sáng taọ của bản thân phụ nữ và đổi mới mạnh mẽ tổ chức, hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ. Chuẩn bị tốt, đáp ứng tốt các điều kiện cũng như tạo môi trường xã hội lành mạnh cho chị em phụ nữ phát triển là điều quan trọng không thể thiếu, nhất là thực hiện dân chủ, công bằng, bình đẳng thực chất cho phụ nữ.
Hai, giáo dục và phát huy truyền thống dân tộc, truyền thống của phụ nữ Việt Nam, trong mọi tầng lớp, lứa tuổi, nghề nghiệp cho chị em phụ nữ để nâng cao ý thức và tình cảm, lòng tự hào và tự trọng của phụ nữ Việt Nam. Đây là vấn đề không chỉ có ý nghĩa chính trị mà còn thuộc về giá trị văn hóa phải được coi trọng, nhất là trong tình hình, bối cảnh hiện nay khi chủ quyền và lợi ích dân tộc phải được coi trọng, đề cao, khi đẩy mạnh hội nhập quốc tế đòi hỏi phải chú trọng phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Phải đặc biệt chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và văn hóa cho phụ nữ trẻ, gắn với công tác nữ thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh - lớp người sinh ra và lớn lên trong hòa bình, trong đổi mới kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập.
Ba, thực hành văn hóa và lối sống, rèn luyện kỹ năng sống cho phụ nữ trong điều kiện xã hội dân chủ và đổi mới với những biến đổi sâu sắc về kinh tế, về cơ cấu xã hội, về giá trị và định hướng giá trị.
Cần thấy hết những diễn biến phức ta của thời cuộc hiện nay đang tác động tiêu cực tới phụ nữ và gia đình cũng như các quan hệ xã hội để chủ động trong lĩnh vực xây dựng gia đình, liên quan trực tiếp tới phụ nữ, nhất là giới trẻ. Không thể không cảnh báo rằng đang có xu hướng suy giảm nghiêm trọng những đức tính và truyền thống tốt đẹp của phụ nữ, những nét đẹp văn hóa thuộc về tình thần, phẩm giá đạo đức, nhân cách, lối sống của phụ nữ trong thời buổi kinh tế thị trường, trong hội nhập với sự bùng nổ thông tin toàn cầu, những hệ lụy tiêu cực đang ảnh hưởng vào phụ nữ, vào gia đình và xã hội nói chung. Đây là vấn đề phải quan tâm trong xây dựng môi trường văn hóa cho phát triển của phụ nữ Việt Nam.
Bốn, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ ở tất cả các cấp, trong đổi mới tổng thể hệ thống chính trị ở nước ta, trong đó có vấn đề công tác phụ nữ, chính sách đối với phụ nữ, công tác Hội và chính sách với cán bộ Hội.
Năm, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo đối với phụ nữ, trong khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo của nước ta, trong hệ thống các cơ quan khoa học, các nhà trường, học viện của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Đó là năm vấn đề đặt ra cần phải giải quyết để tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp giải phóng phụ nữ theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng ta.