pnvnonline@phunuvietnam.vn
Việt Nam giữ tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư ở mức dưới 0,3%
Đại biểu thăm quan khu triển lãm giới thiệu về sự kiện
Công cuộc phòng, chống HIV/AIDS đã trải qua hơn 30 năm và thu được nhiều thành tựu quan trọng. Việt Nam đã từng bước kiểm soát được dịch HIV trên cả 3 tiêu chí đó là: giảm số người nhiễm mới HIV được phát hiện, giảm số người chuyển sang giai đoạn AIDS và giảm số người tử vong liên quan đến AIDS.
PGS.TS.Nguyễn Thị Liên Hương, Thứ trưởng Bộ Y tế, cho biết: Nếu thời điểm đỉnh cao của dịch cách đây 13 năm, khi đó mỗi năm chúng ta phát hiện được khoảng hơn 30.000 trường hợp nhiễm HIV và khoảng 10.000 trường hợp tử vong liên quan đến HIV/AIDS thì có thời điểm chúng ta đã giảm tỷ lệ này xuống chỉ cỏn tương ứng với 1/3 và 1/5 ở thời kỳ dịch đỉnh cao. Việt Nam đã giữ vững tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư luôn ở mức dưới 0,3%. Đây là những con số rất ấn tượng nói lên sự cam kết chính trị mạnh mẽ cũng như sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị ở Việt Nam.
Để đạt được những thành tựu này, không thể không nói đến sự hỗ trợ to lớn về nguồn lực tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế trong suốt nhiều năm qua. Có những thời điểm, kinh phí hỗ trợ của các tổ chức quốc tế đóng góp tới 80% kinh phí chi cho các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS. Tuy nhiên, đứng trước xu thế chung của thế giới về cắt giảm nguồn lực tài trợ và để tăng tính tự chủ của các quốc gia trong đảm bảo nguồn lực tài chính, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Các nhà tài trợ quốc tế đã có công thư cho Thủ tướng Chính phủ thông báo lộ trình cắt giảm ngân sách cho phòng, chống HIV/AIDS vào năm 2012. Thủ tướng chính phủ ngay lập tức chỉ đạo Bộ Y tế xây dựng và trình Đề án đảm bảo tài chính cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS và Đề án này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1899/QĐ-TTg vào ngày 15/10/2013.
Có thể nói đến nay, đây là chương trình y tế duy nhất tại Việt Nam có riêng một Quyết định của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn về cơ chế cho việc đảm bảo tài chính cho một chương trình. Đề án đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc thực hiện các giải pháp đảm bảo tài chính bền vững cho phòng, chống HIV/AIDS một cách căn bản và chiến lược với nhiều nhóm giải pháp từ huy động các nguồn tài chính tới quản lý và sử dụng chương trình hướng tới hiệu quả..
Trải qua 10 năm nỗ lực không ngừng với cam kết chính trị mạnh mẽ của chính quyền các cấp từ trung ương đến các tỉnh, thành phố; sự phối hợp chặt chễ của các bộ ngành trong quá trình xây dựng các cơ chế chính sách; sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính quý báu của cộng đồng các nhà tài trợ, Việt Nam đã thực hiện tiến trình chuyển đổi các nguồn lực tài chính trong nước cho công tác HIV/AIDS với một số kết quả hết sức ấn tượng. Đáng lưu ý, tỷ trọng các nguồn tài chính trong nước đã tăng lên tới hơn 51%, trong đó tỷ trọng ngân sách địa phương phân bổ cho phòng, chống HIV/AIDS không ngừng tăng lên qua các năm (tăng từ 8% lên tới 17%).
Bên cạnh đó, Quỹ Bảo hiểm y tế là bước đột phá của chương trình phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam với 95% người nhiễm HIV tham gia bảo hiểm y tế, tăng gấp 2 lần trong vòng 5 năm.
Thứ trưởng Bộ Y tế đánh giá, để thực hiện thành công chiến lược chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030, Việt Nam vẫn phải đối mặt với các thách thức về đảm bảo nguồn lực tài chính và chuyển giao bền vững chương trình. Nguồn lực huy động dự kiến giai đoạn 2021-2030 mới chỉ đáp ứng được 60-70% nhu cầu. Trong bối cảnh tình hình dịch đang có xu hướng phức tạp: Số người nhiễm HIV được báo cáo tăng cao trong 3 năm trở lại đây tới hơn 13.000 trường hợp, nhiễm HIV tăng nhanh trong nhóm nam quan hệ đồng giới, nhóm chuyển giới.
Một số tỉnh, khu vực vẫn còn nhiều nguy cơ cao về bùng phát dịch trở lại như Đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam bộ; Nguồn tài chính cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS vẫn còn phụ thuộc tới gần 50% vào các dự án quốc tế, nhất là các hoạt động thuộc lĩnh vực dự phòng lây nhiễm HIV hiện Quỹ Bảo hiểm y tế không chi trả; Nội dung chi và định mức chi một số hoạt động đặc thù cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS đã phân cấp cho ngân sách địa phương đảm nhiệm, nhưng hiện nay nhiều địa phương vẫn còn lúng túng trong việc lập dự toán cũng như phê duyệt. Do vậy quá trình chuyển giao tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS trước mắt cũng vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
Ông Marc Knapper, Đại sứ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại Việt Nam, cho biết: Chương trình PEPFAR của Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ chương trình phòng, chống HIV/AIDS tại hơn 30 quốc gia. Trong đó, Việt Nam nổi bật trên toàn cầu như một tấm gương về tính bền vững và huy động nguồn lực trong nước. Việt Nam nắm quyền chủ động tài chính cho các dịch vụ điều trị HIV thông qua bảo hiểm y tế.
Từ năm 2019 đến năm 2022, Quỹ Bảo hiểm y tế của Việt Nam đã đóng góp khoảng 10 triệu đô la Mỹ hàng năm cho các chương trình chăm sóc và điều trị HIV, đáp ứng tới 70% tổng nhu cầu thuốc ARV thiết yếu tại Việt Nam. Đây là một thành tích đáng ghi nhận, nhất là khi so sánh các nguồn lực trong nước chiếm chưa đến 10% kinh phí cho thuốc ARV trước năm 2019. Việc đưa các dịch vụ điều trị HIV vào nền tảng bảo hiểm y tế xã hội là một ví dụ điển hình cho thấy tiến bộ của Việt Nam trên hành trình hướng tới duy trì bền vững ứng phó quốc gia với HIV.
Thành tựu này được xây dựng dựa trên thành tích ấn tượng của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện một chương trình ứng phó HIV quốc gia tiên tiến và sáng tạo. Ví dụ, điều trị bằng Methadone, dự phòng lây truyền từ mẹ sang con và dịch vụ lao/HIV cũng đã huy động thành công các nguồn lực trong nước...
Chiến lược quốc gia kết thúc dịch bệnh AIDS vào năm 2030 đã được chính phủ phê duyệt. Để đạt được mục tiêu này, nhiều giải pháp đã được đặt ra trong đó có việc 100% các địa phương phải xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch và đề án đảm bảo tài chính cho công tác phòng, chống HIV/AIDS vào năm 2021. Tuy nhiên đến nay là cuối năm 2022 vẫn còn 12 tỉnh, thành phố chưa phê duyệt kế hoạch này.