5 giải pháp then chốt giúp phụ nữ dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững

Trường Lê (thực hiện)
28/08/2025 - 14:00
5 giải pháp then chốt giúp phụ nữ dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững

Dạy nghề dệt thổ cẩm cho phụ nữ DTTS tại Tổ hợp tác dệt thổ cẩm buôn M'Oa, xã Ea Kar, Đắk Lắk

Trong những năm qua, tỉnh Đắk Lắk đã triển khai nhiều mô hình “thay đổi nếp nghĩ, cách làm” nhằm giúp phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn còn không ít khó khăn, thách thức. PV Báo Phụ nữ Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Thạc sĩ Cao Thị Lan Anh, Viện Khoa học xã hội vùng Trung bộ và Tây Nguyên, xung quanh vấn đề này.

- Xin bà cho biết, những mô hình "thay đổi nếp nghĩ, cách làm" cho phụ nữ dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk trong giai đoạn 2020 - 2023 đã đạt được những kết quả nổi bật nào?

Có thể nói, phong trào này đã mang lại những chuyển biến rõ nét trong cộng đồng phụ nữ DTTS. Giai đoạn 2020 - 2023, các cấp Hội LHPN tỉnh Đắk Lắk đã xây dựng được trên 2.000 mô hình thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, dịch vụ, may mặc, với hơn 4.500 thành viên tham gia.

Những mô hình này không chỉ dừng ở việc hỗ trợ vốn hay cây, con giống, mà quan trọng hơn là giúp phụ nữ thay đổi tư duy sản xuất. Trước đây, phần lớn phụ nữ DTTS ở địa phương chủ yếu sản xuất theo phương thức truyền thống, việc áp dụng khoa học kỹ thuật còn hạn chế.

Nhưng nay, họ đã biết cách làm ăn, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, quản lý, sử dụng đồng tiền hiệu quả, có tích lũy để tái đầu tư sản xuất.

Chẳng hạn, tại huyện Ea Súp (cũ), chỉ trong hai năm 2023 - 2024, Hội Phụ nữ đã thành lập 7 mô hình sinh kế như "Nuôi bò sinh sản", "Nuôi ếch thịt", "Trồng dừa xiêm", "Nuôi gà an toàn", mỗi mô hình trị giá 5 triệu đồng. Các mô hình này không chỉ duy trì mà còn phát triển hiệu quả, trở thành điểm tựa cho phụ nữ nghèo.

5 giải pháp then chốt giúp phụ nữ dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững- Ảnh 1.

Mô hình chăn nuôi dê của người dân xã Ea Kar, Đắk Lắk

Ở huyện Ea H’Leo (cũ), Hội thành lập mô hình "Nuôi heo rừng lai sinh sản" với 20 thành viên, số vốn 60 triệu đồng, và đến nay có tới 510 chị tham gia 10 mô hình sinh kế khác, duy trì hiệu quả với tổng vốn 160 triệu đồng. Những con số đó chứng minh sức lan tỏa của mô hình.

Ngoài ra, nhiều điển hình phụ nữ DTTS mạnh dạn thay đổi cách làm ăn, như chị H’Lônh Niê ở buôn Gram A2, thị xã Buôn Hồ (cũ), đã cải tạo vườn cà phê già cỗi, trồng xen canh sầu riêng, mít, hồ tiêu, các loại đậu... Nhờ tham gia mô hình, gia đình chị đã ổn định kinh tế, đời sống ngày càng khấm khá.

Điều quan trọng là mô hình đã góp phần khơi dậy tinh thần tự lực vươn lên, thoát nghèo, làm giàu của phụ nữ DTTS. Đây chính là bước đột phá về tư duy trong phát triển kinh tế hộ gia đình.

- Bên cạnh những kết quả tích cực, việc triển khai mô hình còn gặp phải những thách thức gì, thưa bà?

Đúng vậy, hiệu quả là có, nhưng thách thức cũng không nhỏ.

Thứ nhất, chính sách hỗ trợ còn bất cập. Quy định chi cho Dự án 8 - chương trình gắn với mô hình thay đổi nếp nghĩ - chưa đồng bộ giữa Bộ Tài chính và địa phương. Mức chi trọn gói cho các mô hình quá thấp, trong khi yêu cầu thì cao, đặc biệt là mô hình sinh kế gắn với ứng dụng khoa học công nghệ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tính bền vững.

Thứ hai, nhiều địa phương vẫn chưa thực sự khơi dậy được niềm đam mê thay đổi bản thân của phụ nữ DTTS. Khi bắt đầu thì rất rầm rộ, nhưng về sau triển khai còn hình thức, chưa đi vào chiều sâu.

Thứ ba, mô hình mới chỉ thành công khi dựa trên nội lực của phụ nữ và cộng đồng. Thực tế, nhiều gia đình DTTS ở Đắk Lắk vẫn chưa phát huy được nội lực này, còn phụ thuộc nhiều vào hỗ trợ bên ngoài.

Thứ tư, phần lớn mô hình vẫn thiên về nông nghiệp, trong khi phụ nữ DTTS cần thêm kỹ năng về quản trị, thị trường, ứng dụng công nghệ. Tính bền vững chưa cao nếu chỉ dừng lại ở chăn nuôi nhỏ lẻ hay trồng trọt truyền thống.

5 giải pháp then chốt giúp phụ nữ dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững- Ảnh 2.

Nhiều phụ nữ dân tộc đã chủ động, tích cực tham gia làm du lịch tạo sinh kế cho mình, vươn lên thoát nghèo

Một rào cản khác là yếu tố tâm lý, tập quán. Đồng bào DTTS vốn quen với lối sống gắn với núi rừng, sản xuất tự cung tự cấp, ngại thay đổi. Khi triển khai mô hình mới, nhất là thay đổi cây trồng, vật nuôi, nhiều chị em còn e dè, tự ti, chưa dám mạnh dạn.

Ngoài ra, sự phối hợp với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị lữ hành để đảm bảo đầu ra cho sản phẩm còn hạn chế. Nhiều sản phẩm của phụ nữ DTTS làm ra chưa có thị trường ổn định, dẫn đến tâm lý lo lắng khi mở rộng sản xuất.

Cuối cùng, trình độ học vấn và khả năng tiếp cận thông tin của phụ nữ DTTS còn thấp, nhiều chị còn mặc cảm, thiếu tự tin, khó tiếp cận vốn vay, kỹ thuật sản xuất. Đây là thách thức lớn nhất khiến mô hình chưa thực sự lan tỏa mạnh mẽ.

- Với những thách thức đó, theo bà, đâu là giải pháp quan trọng nhất để nhân rộng và nâng cao hiệu quả mô hình trong thời gian tới?

Theo tôi, có một số giải pháp then chốt:

- Tăng cường công tác tuyên truyền, nêu gương điển hình. Phụ nữ DTTS thường rất coi trọng cộng đồng. Nếu có gương sáng từ những hộ gia đình thoát nghèo, làm giàu bền vững, chắc chắn sẽ lan tỏa, tạo cảm hứng cho người khác.

- Nâng cao năng lực cho phụ nữ DTTS. Điều này không chỉ là tập huấn kỹ thuật sản xuất, mà còn phải đào tạo về quản lý vốn, kỹ năng kinh doanh, kết nối thị trường. Hội LHPN cần mở thêm nhiều lớp tập huấn ứng dụng công nghệ 4.0 như đã làm cho hơn 400 chị trong thời gian qua.

5 giải pháp then chốt giúp phụ nữ dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững- Ảnh 3.

Phụ nữ DTTS trên cả nước nỗ lực vượt qua khó khăn, thay đổi cuộc sống của mình, đạt được những thành tựu đáng ghi nhận

- Đẩy mạnh hỗ trợ vốn và kết nối nguồn lực. Không chỉ dừng lại ở hỗ trợ cây, con giống, mà cần tín chấp vay vốn, huy động xã hội hóa, giúp chị em có điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất.

- Phát triển mô hình mới phù hợp với từng địa phương. Ví dụ, ở Buôn Hồ thành công với mô hình trồng xen canh, ở Ea Kar hiệu quả với mô hình chăn nuôi dê kết hợp cây ăn quả, còn ở buôn Tơng Jú, thành phố Buôn Ma Thuột thì dệt thổ cẩm và du lịch cộng đồng lại phát triển mạnh. Mỗi địa phương có lợi thế khác nhau, cần dựa vào đó để xây dựng mô hình.

- Huy động vai trò của già làng, trưởng buôn, người uy tín. Đây là lực lượng có tiếng nói quan trọng trong cộng đồng DTTS, giúp mô hình dễ được chấp nhận và lan tỏa.

Tôi cho rằng, phải coi phụ nữ DTTS là chủ thể, là trung tâm của mô hình, để họ được tham gia ngay từ khâu xây dựng, triển khai, quản lý. Chỉ khi ấy, mô hình mới thực sự bền vững.

- Bà kỳ vọng gì về sự thay đổi tư duy, cách làm của phụ nữ dân tộc thiểu số Đắk Lắk trong giai đoạn tới?

Tôi tin rằng, với sự kiên trì và đồng hành của các cấp Hội, chính quyền, phụ nữ DTTS sẽ ngày càng tự tin hơn. Chúng ta đang chứng kiến nhiều mô hình thành công: từ những hộ phụ nữ chăn nuôi dê ở buôn Tơng Sinh, thu nhập tăng thêm 20 - 30 triệu đồng/năm, đến Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông có doanh thu hàng tỷ đồng, hay mô hình du lịch cộng đồng buôn Tơng Jú thu hút hàng trăm lượt khách.

Đây là minh chứng rằng khi có cơ hội, phụ nữ DTTS hoàn toàn có thể thay đổi nếp nghĩ, cách làm, khẳng định vai trò chủ động trong phát triển kinh tế.

Kỳ vọng lớn nhất của tôi là phong trào này sẽ không chỉ dừng lại ở con số vài nghìn mô hình, mà trở thành một sự thay đổi căn bản về tư duy, để phụ nữ DTTS tự tin hơn, không còn mặc cảm, sẵn sàng vươn lên làm giàu chính đáng, đóng góp cho sự phát triển chung của Tây Nguyên.

- Xin trân trọng cảm ơn bà!

Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có
0 bình luận
Xem thêm bình luận

Nhập thông tin của bạn

Đọc thêm